Văn Học

So sánh Mùa Xuân Nho Nhỏ và Viếng Lăng Bác của Thanh Hải và Viễn Phương

คุณกำลังดูโพสต์นี้: So sánh Mùa Xuân Nho Nhỏ và Viếng Lăng Bác của Thanh Hải và Viễn Phương

Văn mẫu lớp 9: So sánh nguyện ước của Thanh Hải trong Mùa xuân nho nhỏ và nguyện ước của Viễn Phương trong Viếng lăng Bác gồm dàn ý cụ thể, cùng 3 bài văn mẫu, giúp các em tham khảo để hoàn thiện bài viết So sánh Mùa Xuân Nho Nhỏ và Viếng Lăng Bác của Thanh Hải và Viễn Phương của mình hay hơn.Đứng trước tự nhiên tươi đẹp của mùa xuân xứ Huế, Thanh Hải đã trình bày khát vọng hiến dâng mùa xuân của mình vào mùa xuân chung non sông qua bài thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ. Hay ấy là niềm thành kính, nỗi xúc động thành tâm của Viễn Phương lần đầu ra thăm Lăng Bác được biểu thị qua bài thơ Viếng Lăng Bác. Vậy mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây của soyouthinkyoucandance.vn !

VIẾNG LĂNG BÁC
VIẾNG LĂNG BÁC

I. Dàn ý so sánh Mùa Xuân Nho Nhỏ và Viếng Lăng Bác của Thanh Hải và Viễn Phương


Dưới đây là Dàn ý so sánh Mùa Xuân Nho Nhỏ và Viếng Lăng Bác của Thanh Hải và Viễn Phương mời các bạn cùng tham khảo !

A. Mở bài:

  • Giới thiệu chung về 2 tác giả và 2 tác phẩm

Ai cũng có những ước vọng của riêng mình, ước vọng đó có thể phổ biến, giản dị mà cũng có thể là khát khao ước vọng tiến hành được lúc thoát khỏi cái tôi tư nhân hóa thân, hòa nhập vào tập thể. Đứng trước tự nhiên tươi đẹp của mùa xuân xứ Huế, Thanh Hải đã trình bày khát vọng hiến dâng mùa xuân của mình vào mùa xuân chung non sông qua bài thơ Mùa Xuân nho bé. Hay ấy là niềm thành kính, nỗi xúc động thành tâm của Viễn Phương lần đầu ra thăm lăng Bác được biểu thị qua bài thơ Viếng lăng Bác.

B. Thân bài:

Khổ 4,5 của bài Mùa xuân nho nhỏ

màu xuân gợi cho con người niềm khẩn thiết và hi vọng, dù ở cái tuổi gần đất xa trời và những ngày trên giường bệnh mà Thanh Hải vẫn bày tỏ tâm niệm của mình:

Ta làm con chim hót,
Ta làm 1 cành hoa
Ta nhập vào hoà ca,
1 nốt trầm xao xuyến

  • Điệp ngữ “ta làm” cùng với nhịp thơ dập dồn diễn đạt khát vọng thôi thúc mãnh liệt trong lòng thi sĩ. Đấy là khát vọng góp 1 phần bé nhỏ của mình để điểm tô cho mùa xuân quê hương.
    Nguyện ước làm con chim để mang tai mang tiếng hát cho đời thêm rộn rã, 1 cành hoa để khoe sắc trước ánh mặt trời điểm tô cho vẻ đẹp của cuộc sống, 1 nốt trầm góp nên bản hòa ca xao xuyến. Những ước nguyện đó ko cao xa, ko ầm ĩ chứng tỏ thi sĩ rất khiêm tốn và mong muốn được góp sức âm thầm đời mình. Tiếng chim đó, cành hòa đó, khúc ca đó đều là tấm lòng của thi sĩ để mừng cho ngày xuân hợp nhất của quê hương, mừng cho xứ Huế yên bình, mỗi càng ngày càng tăng trưởng.

1 mùa xuân nho bé
Thầm lặng dâng cho đời
Dù là tuổi 2 mươi
Dù là lúc tóc bạc.

  •  Thái độ sống hăng hái, sáng sủa của 1 thi sĩ đã nhiều đóng góp cho nền thơ ca Việt Nam và cho cả cuộc kháng chiến vẫn cho sự góp sức của mình là âm thầm. Dẫu qua cái tuổi xuân của cuộc đời vẫn muốn góp sức sức lực của mình.
  • Điệp ngữ “dù là” là lời nhắc nhở bản thân luôn quyết tâm để đối đầu với tuổi già, bệnh tật. Theo thi sĩ, ko chỉ tuổi xanh mới có phận sự đóng góp cho xã hội nhưng ấy là phận sự của tất cả mọi người.
  • Hình ảnh thơ gần gụi, mộc mạc, giọng thơ nhẹ nhõm, ngọt ngào như tiếng lòng rủ rỉ của chính thi sĩ. Nguyện ước ấy là nguyện ước cao đẹp ko cho riêng mình nhưng dành riêng cho cuộc đời.

Khổ thơ cuối Viếng lăng Bác

Mai về miền Nam, thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng
Muốn làm bông hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

  • Dù rằng đang đứng trước hình hài người lãnh tụ mà Viễn Phương đã lo sợ lúc mai phải lìa xa nơi này. Nỗi thôi thúc trong lòng thành kính và tình cảm vô hạn đối với người lãnh tụ đã khiến thi sĩ bật lên thành tiếng khóc “thương trào nước mắt” ý thơ mộc mạc nhưng thành tâm.
  •  Điệp ngữ “muốn làm” nhấn mạnh khát vọng được hóa thân để ở kế bên Người. Viễn phương muốn làm con chim để hót chào rạng đông thức dậy trước lăng và mang tai mang tiếng hát say sưa cho Bác ngủ thanh bình, muốn làm đóa hoa trước lăng khoe sắc, muốn làm cây tre canh phòng sự thiêng liêng. Hình ảnh cây tre Việt Nam được lặp lại phần đầu thêm vào nhân phẩm trung hiếu để hoàn thiện tính cách của người Việt Nam: bền chí, quật cường, trung hiếu.
  • Viễn Phương sử dụng tiếng nói giản dị mà giàu sức gợi cảm, tinh tế và khôn khéo trong tuyển lựa hình ảnh để bộc bạch tấm lòng thành kín của đứa con miền Nam lúc đứng trước lăng Bác. Bài thơ truyền cho người đọc tình yêu quý vị lãnh tụ lớn lao của dân chúng và thái độ sống ân huệ, trung hiếu đối với non sông.

So sánh:

– Điểm giống nhau:

  • Cả 2 đoạn thơ đều trình bày nguyện ước thành tâm, khẩn thiết được hoà nhập, góp sức cho cuộc đời, cho non sông, dân chúng… Nguyện ước khiêm nhượng, bình dị muốn được góp phần dù bé nhỏ vào cuộc đời chung.
  • Các thi sĩ đều dùng những hình ảnh đẹp của tự nhiên là tượng trưng trình bày nguyện ước của mình.

– Khác nhau:

  • Thanh Hải viết về đề tài tự nhiên non sông và khát vọng hòa nhập hiến dâng cho cuộc đời.
  • Viễn Phương viết về đề tài lãnh tụ, trình bày niềm xúc động thiêng liêng, tấm lòng khẩn thiết thành kính lúc tác giả từ miền Nam vừa được giải phóng ra viếng Bác Hồ.

III. Kết bài:

  • Dù ngày Viễn Phương ra viếng lăng Bác đã rất xa, Thanh Hải thì ko còn nhận ra mùa xuân quê hương mình nữa. Nhưng mỗi thi sĩ đều để lại những dòng thơ tràn đầy, ấm áp về tình người, tình cảm sâu nặng với quê hương, xứ sở.

II. Sơ đồ tư duy so sánh ước nguyện của Thanh Hải và Viễn Phương


Dưới đây là Sơ đồ tư duy so sánh ước nguyện của Thanh Hải và Viễn Phương ngắn gọn, dễ hiểu nhất !

I. Ước nguyện của Thanh Hải:

A. Mong muốn tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống trong những thứ bình dị.

B. Khao khát sống trong một thế giới công bằng và đoàn kết.

C. Muốn được gắn kết với đất nước, nhân dân và sự nghiệp cách mạng.

D. Mong muốn được làm việc có ích cho xã hội và giúp đỡ người khác.

II. Ước nguyện của Viễn Phương:

A. Muốn được sống một cuộc đời đầy đam mê và khám phá thế giới.

B. Mong muốn có sự độc lập và tự do trong cuộc sống.

C. Khao khát có một tình yêu đẹp và sâu sắc.

D. Muốn tìm được vị trí của mình trong cuộc đời và để lại ảnh hưởng lớn đến thế giới.

Tổng quan về sơ đồ tư duy này, ta có thể thấy rằng ước nguyện của Thanh Hải hướng tới sự gắn bó với đất nước và công việc có ích, trong khi ước nguyện của Viễn Phương tập trung vào sự độc lập và khám phá thế giới. Tuy nhiên, cả hai nhân vật đều có mong muốn sống trong một thế giới công bằng và đoàn kết, và đều khao khát tìm kiếm ý nghĩa trong cuộc sống.

III. Tổng hợp một số bài văn mẫu So sánh ước nguyện của Thanh Hải trong Mùa xuân nho nhỏ và ước nguyện của Viễn Phương trong Viếng lăng Bác


Sau đây là Tổng hợp một số bài văn mẫu So sánh ước nguyện của Thanh Hải trong Mùa xuân nho nhỏ và ước nguyện của Viễn Phương trong Viếng lăng Bác của học sinh giỏi !

1. So sánh Mùa Xuân Nho Nhỏ và Viếng Lăng Bác của Thanh Hải và Viễn Phương

Như chúng ta đã biết có rất nhiều nhà văn, thi sĩ đã viết về nguyện ước góp sức cho cuộc đời. Thế mà, có nhẽ chưa có người nào viết 1 cách thật thật tâm, thân yêu như trong khổ 4 bài thơ “Viếng lăng Bác” của thi sĩ Viễn Phương:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”

Và khổ 4 và 5 trong bài thơ “Mùa xuân nho bé” của nhà thơ Thanh Hải:

“Ta làm con chim hót
Ta làm 1 cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
1 nốt trầm xao xuyến.

1 mùa xuân nho bé
Thầm lặng dâng cho đời
Dù là tuổi 2 mươi
Dù là lúc tóc bạc. ”

Qua 2 tác phẩm trên, ta có nghĩ suy gì về nguyện ước góp sức của các tác giả? Ở đầu khổ thơ 4 trong bài “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương đã khởi đầu bằng: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”.

Nếu ở khổ thơ thứ nhất nói về hình ảnh hàng tre xanh xanh thân thuộc của làng quê Việt Nam, ở khổ thơ thứ 2 nói về hình ảnh mặt trời cùng dòng người đi vào lăng viếng Bác trình bày niềm tôn kính của thi sĩ và cũng là của mọi người đối với Bác, ở khổ thơ thứ 3 thì nói về tâm cảnh và sự xúc động lúc ở trong lăng Bác thì tới khổ thơ thứ tư này, thi sĩ đã biểu thị rõ nét nhất về tình cảm của mình lúc phải rời xa lăng Bác để trở về với những công tác của mình. Qua cụm từ “thương trào nước mắt”, tác giả nghe đâu khóc rất nhiều lúc phải nói lời chia tay với Bác và sau ấy thi sĩ đã nêu:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Điệp ngữ “muốn làm” liên kết với nghệ thuật liệt kê, những cụ thể gợi tả “con chim, đóa hoa, cây tre” với nhịp thơ dập dồn đã nói lên nguyện ước của thi sĩ Viễn Phương muốn hóa thân vào cảnh vật quanh lăng Bác. Tác giả muốn làm con chim hót ru Bác ngủ, muốn làm đóa hoa tỏa hương mênh mông, muốn làm cây tre canh phòng giấc ngủ bình an cho Người. Kết cấu đầu, cuối tương ứng thật lạ mắt và khôn khéo, bài thơ mở ra hình ảnh hàng tre xanh xanh Việt Nam và kết lại bằng hình ảnh “‘cây tre trung hiếu”. Nếu hàng tre là đại diện cho dân tộc Việt Nam thì cây tre trung hiếu đại diện cho thi sĩ. Tác giả muốn làm 1 công dân trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng chấm dứt, gian khổ nào cũng vượt qua, kẻ địch nào cũng đánh bại. Và tác giả muốn đi theo tuyến đường cách mệnh tuân theo lời Bác. Đấy cũng là nguyện ước của toàn dân chúng ta. Sang tới đoạn thơ thứ 2, khố 4, 5 trong bài “Mùa xuân nho bé” của nhà thơ Thanh Hải, ông đã viết:

“Ta làm con chim hót
Ta làm 1 cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
1 nốt trầm xao xuyến.

1 mùa xuân nho bé
Thầm lặng dâng cho đời
Dù là tuổi 2 mươi
Dù là lúc tóc bạc.”

Nếu ở khổ 1 là bức tranh tự nhiên của mùa xuân xứ Huế, ở khổ 2 và khổ 3 là mùa xuân tự nhiên của non sông thì tới đây là nguyện ước góp sức của thi sĩ:

“Ta làm con chim hót
Ta làm 1 cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
1 nốt trầm xao xuyến.”

Với những dòng thơ như tâm sự, rủ rỉ, liên kết với điệp ngữ “ta làm” đã trình bày được nguyện ước của thi sĩ. Dù lặp lại 2 hình ảnh “con chim, cành hoa” ở khổ 1 để tạo kết cấu chặt chẽ trong bài thơ mà ở khổ 1 lại là hình ảnh của tự nhiên thì ở đây được nâng lên là 2 hình ảnh ẩn dụ nói lên nguyện ước của thi sĩ. Nếu con chim mang tai mang tiếng hát cho đời thêm vui, cành hoa tỏa hương sắc làm đẹp cho đời thì thi sĩ cũng nguyện đem những gì tốt hấp dẫn nhất cho đời. Tác giả còn muốn làm “1 nốt trầm xao xuyến”. “Nốt trầm” là nốt thấp trong 1 bản nhạc mà sự hiện diện của nó góp phần làm tăng bậc cao của những nốt còn lại, tạo sự luyến láy khiến cho bản đại hòa tấu thêm rộn rã, tươi vui. Nếu ở khổ đầu tác ví thử dụng đại từ “tôi” tức là chỉ mình ông cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân tự nhiên thì tới đây ông dùng đại từ “ta” vừa chỉ số ít, vừa chỉ số nhiều tức là chẳng hề chỉ nguyện ước của riêng thi sĩ nhưng là của toàn dân Việt Nam. Sự hài hòa giữa “tôi” và “ta”, sự gắn bó giữa cái chung và cái riêng.

Và sang khổ thơ thứ 5, thi sĩ lại tiếp diễn nói về nguyện ước góp sức của mình:

“1 mùa xuân nho bé
Thầm lặng dâng cho đời
Dù là tuổi 2 mươi
Dù là lúc tóc bạc.”

Nhiều thi sĩ dùng nhiều định ngữ mùa xuân: mùa xuân xanh, mùa xuân 9, xuân lòng…Nhưng “mùa xuân nho bé” là 1 hình ảnh ẩn dụ, thông minh lạ mắt, 1 phát hiện mới của Thanh Hải. Nếu mùa xuân đem đến những chỉnh sửa diệu kì cho non sông thì thi sĩ cũng nguyện làm mùa xuân sống đẹp, sống với tất cả sức sống đang có để góp vào mùa xuân béo của dân tộc, của cuộc đời chung. Từ láy gợi cảm “âm thầm” được đảo lên đầu câu thơ liên kết từ “dâng” gợi cảm đã trình bày sự lặng thầm ko khoa trương, nói lên 1 thái độ góp sức, 1 cách góp sức rất riêng Thanh Hải. Điệp ngữ “dù là” liên kết 2 hình ảnh hoán dụ “tuổi 2 mươi” và “tóc bạc” đã trình bày được nguyện ước góp sức của thi sĩ dù ấy là tuổi xanh đầy thanh xuân hay dù cho đã luống tuổi.

Qua phần phân tách trên, ta cảm nhận ở 2 thi phẩm có những nét chung về nội dung và nghệ thuật. Xét về căn bản, cả 2 tác phẩm đều trình bày nguyện ước sống và góp sức cao đẹp, đem đến cho đời những gì tốt hấp dẫn nhất và đặc trưng ở 2 tác giả, ta thấy những xúc cảm ấy đều khởi hành từ tình cảm thành tâm yêu cuộc sống, yêu non sông dạt dào. Còn về mặt nghệ thuật, cả 2 bài thơ đều mượn những hình ảnh tự nhiên tuyệt đẹp và giàu ý nghĩa.

Tóm lại, 2 thi phẩm, 2 tác giả mà chung 1 nghĩ suy, chung 1 nguyện ước. Những điều ấy thật đáng cho chúng ta – những lứa tuổi sau này – trân trọng. Riêng bản thân tôi vẫn còn ngồi trên ghế nhà trường mà sẽ luôn nuôi dưỡng trong lòng mình những đức tính tốt, trui rèn đạo đức, tri thức để ngày mai có thể xây dựng non sông càng ngày càng phồn vinh, lớn mạnh.

MÙA XUÂN NHO NHỎ

2. So sánh ước nguyện của Thanh Hải và Viễn Phương

Trong văn chương đương đại, có rất nhiều nhà văn, thi sĩ đã trình bày mong muốn được góp sức tuổi thanh xuân của mình cho non sông phê chuẩn các tác phẩm của mình. Trong số các tác phẩm đó, có thể nói khổ 4 bài thơ “Viếng Lăng Bác” của Viễn Phương và khổ 4, 5 bài thơ “Mùa xuân nho bé” của Thanh Hải đã trình bày mong muốn đó 1 cách lạ mắt, thâm thúy nhất. Vậy ta có nghĩ suy gì về nguyện ước góp sức của 2 thi sĩ trong các đoạn thơ đó?

Ở “Viếng lăng Bác, nếu khổ 1 mô tả hàng tre bên lăng Bác, khổ 2 mô tả mặt trời và đoàn người tới viếng lăng Bác, khổ 3 mô tả cảnh Bác nằm trong giấc ngủ bình an thì khổ 4 trình bày nguyện ước của tác giả qua việc mô tả cảnh vật bao quanh lăng:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này. ”

Bằng việc liệt kê các hình ảnh chọn lựa “con chim”, “đoá hoa”, “cây tre”, điệp ngữ “Muốn làm” và nhịp thơ nhanh, đoạn thơ đã trình bày nguyện ước góp sức của tác giả. Đây là những hình ảnh ẩn dụ đẹp trình bày nguyện ước của thi sĩ muốn làm “con chim” đem đến thú vui cho Bác, làm “đoá hoa” tô điểm cho lăng Bác và làm “cây tre” hoà nhập vào hàng tre mênh mông trước lăng Bác. Ở đây ta thấy có sự kết cấu ngành ngọn tương ứng: bài thơ mở ra bằng hình ảnh “hàng tre” và chấm dứt bằng hình ảnh “cây tre trung hiếu”. “Cây tre trung hiếu” trình bày mong muốn của tác giả được “trung với nước, hiếu với dân” như lời Bác dạy. Đây cũng là lời hẹn của tác giả trước anh linh của Bác, hẹn sẽ luôn giữ nhân phẩm, cốt cách người Việt Nam, hẹn sẽ sống như Bác và đi tiếp tuyến đường cách mệnh của Bác. Tác giả nói lên ước vọng của mình, hay phải chăng đã nói hộ ước vọng của tất cả chúng ta?

Còn ở bài “Mùa xuân nho bé”, nếu khổ 1 mô tả xúc cảm của thi sĩ về mùa xuân tự nhiên xứ Huế, khổ 2, 3 nói về xúc cảm của thi sĩ trước mùa xuân của non sông thì ở khổ 4, tác giả đã nói lên nguyện ước thành tâm:

“Ta làm con chim hót
Ta làm 1 cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
1 nốt trầm xao xuyến ”

Bằng giọng thơ bé nhẹ, khẩn thiết, các hình ảnh chọn lựa “con chim”, “cành hoa”, “nốt trầm” và điệp ngữ “ta làm”, khổ thơ trên đã trình bày nguyện ước góp sức của Thanh Hải. Nhà thơ muốn làm “con chim” để đem đến thú vui, niềm hạnh phúc cho mọi người, muốn làm “cành hoa” là muốn đem đến những gì hấp dẫn nhất cho đời, muốn làm “nốt trầm” là muốn hoà nhập với cuộc đời chung, vì cuộc sống là 1 bản hoà ca nhưng mỗi người trong ấy đều là 1 nốt nhạc phải sống trong bản hoà ca ấy, chẳng thể lỗi nhịp được. Nhưng tác giả chỉ vì mình như 1 nốt trầm thôi. Nốt trầm đó tuy bé nhỏ mà lại góp phần quan trọng để làm bản hoà ca trở thành du dương, làm xao xuyến lòng người. Tất cả đã trình bày rằng tác giả muốn sống đẹp, muốn góp sức những điều tốt hấp dẫn nhất dù là bé nhỏ, sống với tất cả nhựa sống của mình như con chim cho tiếng hót hay, cành hoa toả hương sắc cho đời. Ta còn thấy ở đây có 1 sự biến đổi ngôi nhân xưng từ “tôi” sang “ta”. Ở khổ 1, tác giả dùng đại từ “tôi” để mô tả xúc cảm riêng của mình, còn ở đây ông dùng đại từ ta với 2 nghĩa: nghĩa số ít và nghĩa số nhiều. Điều này chứng tỏ ấy ko chỉ là nguyện ước riêng của tác giả nhưng còn là nguyện ước chung của mọi người. Nguyện ước góp sức ở trên được trình bày rõ hơn ở khổ 5:

1 mùa xuân nho bé
Thầm lặng dâng cho đời
Dù là tuổi 2 mươi
Dù là lúc tóc bạc.

Từ láy “nho bé” và điệp ngữ “âm thầm” đã trình bày sự khiêm tốn của tác giả. Động từ “dâng” đã nói lên thái độ tình nguyện, thành tâm góp sức cho non sông suốt cuộc đời mình. Không chỉ vậy, các hình ảnh hoán dụ “tuổi 2 mươi” và “lúc tóc bạc” đã nói lên rằng dù trẻ hay già thì mọi người đều có thể góp sức cho đời: Điệp ngữ “dù là” như muốn thử thách thời kì, tuổi già và bệnh tật. Biết rằng tác giả đang nằm trên giường bệnh lúc sáng tác bài thơ này và thấy được thái độ sáng sủa, những khát vọng của ông; ta cảm thấy ông thật đáng quý, đáng bái phục biết bao.

Sự cảm nhận trên đã cho ta thấy ở các đoạn thơ có 1 số sự đồng nhất về nội dung và nghệ thuật, về nội dung, xét về mặt căn bản, cả 2 đoạn thơ đều nói về nguyện ước sống đẹp, sống góp sức của tác giả và của tất cả mọi người. Hơn nữa, chúng đều khởi hành từ những xúc cảm thành tâm nhất của các tác giả và tình yêu của họ đối với cuộc sống, non sông với vị lãnh tụ mến yêu. về nghệ thuật, cả 2 tác giả đã sử dụng những hình ảnh mộc mạc, giản dị trong tự nhiên và nâng chúng lên thành những khát vọng góp sức cao đẹp. Không chỉ thế, cả 2 đoạn thơ còn sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ mới mẻ, thông minh lạ mắt, làm chúng trở thành thật thu hút, gây nhiều xúc cảm cho người đọc.

Tuy nhiên, 2 đoạn thơ cũng có sự không giống nhau về nội dung và nghệ thuật, về nội dung, sự không giống nhau đó chính là cảm hứng, tình cảnh sáng tác bài thơ. Thanh Hải đã sáng tác “Mùa xuân nho bé” khi đang lâm bệnh, ko còn sống được lâu nữa mà vẫn rất muốn góp sức 1 thứ gì ấy cho đời. Còn bài “Viếng lăng Bác” được Viễn Phương sáng tác sau lúc vào Hà Nội thăm lăng Bác, trình bày xúc cảm, tâm sự của ông sau chuyến đi đó. Về nghệ thuật, khổ 4, 5 “Mùa xuân nho bé” được viết theo thể thơ 5 chữ, giọng thơ nhẹ nhõm, khẩn thiết, tâm sự, biểu thị tấm thật tâm của tác giả khi mà khổ 4 của “Viếng lăng Bác” được viết theo thể thơ 8 chữ, giọng thơ nghiêm trang, thành kính, nhịp thơ dập dồn gây cho người đọc nhiều xúc cảm về Bác Hồ.

Với tất cả những sự giống nhau và không giống nhau ấy, mỗi đoạn thơ đều có những âm hưởng riêng, cá tính riêng đã đem đến cái hay, cái rực rỡ riêng của từng bài làm cho ta hết sức xúc động trước nguyện ước góp sức của tác giả và lối sống xinh xắn, đầy bổn phận của họ, và cũng là lối sống của con người Việt Nam, như Tố Hữu đã từng viết:

“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Đời nào vay nhưng ko trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”

Là học trò, sau lúc hiểu được các đoạn thơ trên, tôi sẽ quyết tâm đoàn luyện cho mình lối sống đẹp và có bổn phận, quyết tâm góp sức những gì tốt hấp dẫn nhất của mình cho quê hương, non sông.

3. Cảm nhận khổ 4 bài Mùa Xuân Nho Nhỏ và khổ cuối bài Viếng Lăng Bác

Chúng ta sống trong xã hội có con người và tự nhiên ,nên chăng phải biết quý mến tự nhiên và con người phải ko bạn nhỉ? Với Thanh Hải cảm xúc trước mùa xuân của tự nhiên, đất trời tới mùa xuân của mỗi con người trong mùa xuân béo của non sông, trình bày khát vọng được hiến dâng “mùa xuân nho bé” của mình vào mùa xuân béo của cuộc đời chung và ta cũng thấy niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng hàm ơn và kiêu hãnh xen lẫn nỗi chua xót lúc tác giả Viễn Phương vào lăng viếng Bác được trình bày qua giọng điệu vừa khẩn thiết, vừa nghiêm trang của thi sĩ, ở cả 2 bài thơ nguyện ước ko chỉ của riêng..

Không phải trùng hợp nhưng thi sĩ Thanh Hải tuyển lựa mùa xuân để khởi nguồn cảm hứng. Mùa xuân của tự nhiên, non sông thường gợi lên ở mỗi con người niềm khao khát và hi vọng. Với Thanh Hải cũng thế, đây chính là thời khắc nhưng ông nhìn lại cuộc đời và bày tỏ tâm niệm khẩn thiết của 1 nhà cách mệnh, 1 thi sĩ đã gắn bó trọn đời với non sông, quê hương với 1 khát vọng thành tâm và khẩn thiết:

“Ta làm con chim hót,
Ta làm 1 cành hoa.
Ta nhập vào hoà ca,
1 nốt trầm xao xuyến”

 

Nhịp thơ dập dồn và điệp từ “ta làm” diễn đạt rõ nét khát vọng góp sức của thi sĩ. Đấy là khát vọng sống hoà nhập vào cuộc sống của non sông, góp sức phần tốt đẹp, dù bé nhỏ, của mình cho cuộc đời chung, cho non sông. Điều tâm niệm đó được trình bày 1 cách thành tâm trong những hình ảnh thiên nhiên giàu sức gợi tả, gây xúc động sâu xa trong lòng người đọc. Nguyện ước được làm 1 tiếng chim, 1 cành hoa để góp vào vườn hoa muôn hương muôn sắc, rộn ràng tiếng chim, để đem đến hương sắc, điểm tô cho mùa xuân thêm tươi đẹp. Nhà thơ cầu nguyện được làm 1 “nốt trầm xao xuyến” ko ầm ĩ, ko cao điệu nhưng chỉ lặng thầm, âm thầm để “nhập” vào khúc ca, tiếng hát của dân chúng vui tươi đón xuân về. Được điểm tô cho mùa xuân, được góp phần kiến lập mùa xuân là tác giả đã nguyện hi sinh, nguyện góp sức cho sự phồn vinh của non sông. 1 mong ước nho bé, thật tâm, ko cừ khôi lớn lao nhưng gần gụi quá, khiêm tốn và cute quá! Hình ảnh nhuần nhì, thiên nhiên, thành tâm, giọng thơ nhè nhẹ, êm ái, ngọt ngào của những thanh bằng liên tục liên kết với cách cấu tứ lặp lại tương tự đã mang 1 ý nghĩa mới nhấn mạnh thêm mơ ước được sống có lợi cho đời, góp sức cho non sông như 1 lẽ thiên nhiên. Điệp từ “ta” như 1 lời khẳng định, vừa như 1 tiếng lòng, như 1 lời hàn huyên bé nhẹ, thật tâm. Nguyện ước ấy đã được đẩy lên cao thành 1 lẽ sống cao đẹp, ko chỉ cho riêng thi sĩ nhưng cho tất cả mọi người, cho thời đại của chúng ta. Đấy là lẽ sống góp sức cho đời âm thầm, khiếm tốn, không tính gì tới tuổi tác:

1 mùa xuân nho bé
Thầm lặng dâng cho đời
Dù là tuổi 2 mươi
Dù là lúc tóc bạc.

Thái độ “âm thầm dâng cho đời” nói lên ý nguyện thật khiêm nhượng mà vô cùng dẻo dai và hết sức đáng quý vì ấy là những gì tốt hấp dẫn nhất trong cuộc đời. Thật cảm động làm sao trước ước ao của thi sĩ dẫu đã qua tuổi xuân của cuộc đời, vẫn được làm 1 mùa xuân bé trong cái mùa xuân béo lao đó. Điệp ngữ “dù là” ở đây như 1 lời tự khẳng định để nhủ với lương tâm sẽ phải kiên cường, thách thức với thời kì tuổi già, bệnh tật để mãi mãi làm 1 mùa xuân nho bé trong mùa xuân bao la của quê hương non sông. Giọng thơ vẫn bé nhẹ, thật tâm mà mang sức nói chung béo. Chính thành ra, hình ảnh “mùa xuân nho bé” như ánh lên, toả sức xuân tâm hồn trong toàn bài thơ.

Thật cảm động và kính phục biết bao lúc đọc những vần thơ như lời tổng kết của cuộc đời. “Dù là tuổi 2 mươi” lúc mới tham dự kháng chiến cho tới lúc tóc bạc là thời khắc bây giờ vẫn âm thầm hiến dâng cho đời và những câu thơ này là 1 trong những câu thơ rốt cuộc. “1 mùa xuân nho bé” rốt cuộc của Thanh Hải dâng tặng cho đời trước khi ông bước vào toàn cầu cực lạc, sẵn sàng ra đi mãi mãi.

Và “Viếng lăng Bác”, bài thơ gây 1 cảm xúc đặc trưng. Viễn Phương bằng 1 tiếng nói tinh tế, giàu xúc cảm sâu lắng đã diễn đạt niềm mến yêu, sự xót thương và lòng hàm ơn vô bờ của thi sĩ đối với lãnh tụ. Từ tình cảm thành kính, ái mộ nhưng toàn dân tộc Việt Nam dành cho Bác thi sĩ đã truyền xúc cảm của mình tới với người đọc lúc nguyện làm tiếng chim hót , làm bông hoa đẹp, làm cây tre trung hiếu và chuẩn bị làm muôn vàn công tác tốt để kính dâng Người:

Mai về miền Nam, thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng
Muốn làm bông hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Dù rằng hiện nay thi sĩ đang đứng bên lăng Người, trong lăng Người mà lúc nghĩ tới những ngày phải rời miền Bắc, ngày xa Bác Viễn Phương thấy quyến luyến ko muốn rời. Tình cảm trong những ngày được sống bên Bác xoành xoạch sâu lắng từng giây từng phút. Tác giả chẳng thể nào ngăn được nữa những dòng nước mắt trào dâng và khẩn thiết.

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Câu thơ thật bình dị mà chan chứa tình thương ôm ấp sâu lắng tận đáy lòng khiến cho mỗi chúng ta lúc đọc lên cảm thấy hết sức xúc động. Đây là 1 cách nói ko hoa mỹ nhưng là 1 cách nói rất thành tâm của người dân Nam Bộ mà lại lắng đọng trong lòng người ko gì có thể nói và tả được. Cũng khởi hành từ tình cảm ấy bởi thế thi sĩ có nguyện ước thành kính và đây có thể là ước muốn chung của tất cả mọi người đã 1 lần hoặc chưa 1 lần gặp Bác.

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Điệp ngữ “Muốn làm” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong đoạn thơ trình bày nguyện ước muốn tình nguyện tự giác của Viễn Phương. Nhà thơ muốn làm con chim hót dâng tiếng hót vui. Muốn làm bông hoa dâng hương thơm và nhan sắc. muốn làm cây tre trung hiếu canh phòng cho lăng Bác ngày đêm. Hình ảnh cây tre lại hiện ra ở đoạn cuối bài thơ làm nhiệm vụ khép lại bài thơ 1 cách khôn khéo, tạo cho người đọc 1 ấn tượng mạnh bạo khó phai mờ. Hình tượng tre được chuyển hóa: “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”. Khổ thơ đầu là hàng tre, khổ thơ cuối là cây tre. Nghĩa là muốn hóa thân thành 1 cây tre trong hàng tre kia để luôn được ở bên Bác, biểu thị 1 tình cảm bịn rịn. Đấy là tấm lòng yêu quý và sự tôn kính đối với Bác Hồ. Và thật cao đẹp biết bao lúc thi sĩ muốn hóa thân làm cây tre trung hiếu, trong muôn vàn cây tre quanh lăng Bác, để được ở mãi bên Bác. Hình ảnh cây tre ở khổ thơ thứ nhất được lặp lại trong khổ thơ cuối hình thành kết cấu đầu cuối tương ứng, giúp hoàn thiện tượng trưng cây tre Việt Nam. Nếu ở khổ thơ thứ nhất, tre là hình ảnh biểu trưng cho nhân phẩm bền chí, quật cường; thì ở khổ thơ cuối, hình ảnh cây tre được lặp lại mà là để biểu trưng cho nhân phẩm trung hiếu. Cây tre đã biến thành tượng trưng chu toàn cho nhân phẩm của con người và dân tộc Việt Nam.

Bài thơ “Viếng lăng Bác” đã để lại trong lòng độc giả những xúc cảm sâu lắng và khẩn thiết. Bài thơ sẽ tiếp diễn sống trong lòng người đọc, gợi nhắc cho những lứa tuổi kế tục thành tựu đặc sắc của cách mệnh cách sống sao cho xứng đáng với sự hi sinh của 1 con người lớn lao nhưng giản dị- Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã sống trọn 1 đời:

“Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa”

Cảm nhận khổ 4 bài Mùa Xuân Nho Nhỏ và khổ cuối bài Viếng Lăng Bác
Cảm nhận khổ 4 bài Mùa Xuân Nho Nhỏ và khổ cuối bài Viếng Lăng Bác

IV. Tổng kết những lưu ý khi so sánh Mùa Xuân Nho Nhỏ và Viếng Lăng Bác của Thanh Hải và Viễn Phương


Dưới đây là một số chú ý và lưu ý khi so sánh ước nguyện của Thanh Hải và Viễn Phương trong hai tác phẩm “Mùa Xuân Nhỏ” và “Viếng Lăng Bác”:

  1. Đọc kỹ và hiểu rõ tác phẩm: Trước khi so sánh ước nguyện của hai nhân vật, bạn cần đọc kỹ và hiểu rõ nội dung của hai tác phẩm “Mùa Xuân Nhỏ” và “Viếng Lăng Bác”. Điều này sẽ giúp bạn có được cái nhìn tổng quan về các yếu tố khác nhau trong cuộc sống của Thanh Hải và Viễn Phương.
  2. Tập trung vào những điểm khác nhau: Khi so sánh ước nguyện của hai nhân vật, hãy tập trung vào những điểm khác nhau của họ thay vì những điểm giống nhau. Điều này sẽ giúp bạn có được cái nhìn sâu sắc hơn về cá tính và quan điểm của mỗi nhân vật.
  3. Sử dụng sơ đồ tư duy: Sơ đồ tư duy là một công cụ hữu ích để so sánh và phân tích các ý tưởng và ý niệm. Bạn có thể sử dụng sơ đồ tư duy để tạo ra một bản tóm tắt về những điểm khác nhau giữa ước nguyện của Thanh Hải và Viễn Phương.
  4. Chú ý đến ngữ cảnh: Khi so sánh ước nguyện của hai nhân vật, hãy chú ý đến ngữ cảnh của tác phẩm và thời đại mà tác phẩm được viết. Việc này sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về các giá trị và quan niệm của Thanh Hải và Viễn Phương.
  5. Phân tích các tình huống và hành động của nhân vật: Khi so sánh ước nguyện của hai nhân vật, bạn có thể phân tích các tình huống và hành động của họ trong tác phẩm để hiểu rõ hơn về quan điểm của mỗi nhân vật.
Mùa Xuân Nho Nhỏ và Viếng Lăng Bác
Mùa Xuân Nho Nhỏ và Viếng Lăng Bác

V. Video so sánh Mùa Xuân Nho Nhỏ và Viếng Lăng Bác của Thanh Hải và Viễn Phương


Xem thêm thông tin Văn mẫu lớp 9: So sánh ước nguyện của Thanh Hải trong Mùa xuân nho nhỏ và ước nguyện của Viễn Phương trong Viếng lăng Bác Dàn ý & 3 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất

Văn mẫu lớp 9: So sánh nguyện ước của Thanh Hải trong Mùa xuân nho bé và nguyện ước của Viễn Phương trong Viếng lăng Bác Dàn ý & 3 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất

Văn mẫu lớp 9: So sánh nguyện ước của Thanh Hải trong Mùa xuân nho bé và nguyện ước của Viễn Phương trong Viếng lăng Bác gồm dàn ý cụ thể, cùng 3 bài văn mẫu, giúp các em tham khảo để hoàn thiện bài viết của mình hay hơn.Đứng trước tự nhiên tươi đẹp của mùa xuân xứ Huế, Thanh Hải đã trình bày khát vọng hiến dâng mùa xuân của mình vào mùa xuân chung non sông qua bài thơ Mùa Xuân nho bé. Hay ấy là niềm thành kính, nỗi xúc động thành tâm của Viễn Phương lần đầu ra thăm lăng Bác được biểu thị qua bài thơ Viếng lăng Bác. Vậy mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây của Ôn Thi HSG:So sánh nguyện ước của Thanh Hải và Viễn PhươngDàn ý so sánh nguyện ước của Thanh Hải và Viễn PhươngSo sánh nguyện ước của Thanh Hải và Viễn PhươngSo sánh nguyện ước của Thanh Hải và Viễn Phương – Mẫu 1So sánh nguyện ước của Thanh Hải và Viễn Phương – Mẫu 2So sánh nguyện ước của Thanh Hải và Viễn Phương – Mẫu 3(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Dàn ý so sánh nguyện ước của Thanh Hải và Viễn PhươngI. Mở bài: giới thiệu chung về 2 tác giả và 2 tác phẩmAi cũng có những ước vọng của riêng mình, ước vọng đó có thể phổ biến, giản dị mà cũng có thể là khát khao ước vọng tiến hành được lúc thoát khỏi cái tôi tư nhân hóa thân, hòa nhập vào tập thể. Đứng trước tự nhiên tươi đẹp của mùa xuân xứ Huế, Thanh Hải đã trình bày khát vọng hiến dâng mùa xuân của mình vào mùa xuân chung non sông qua bài thơ Mùa Xuân nho bé. Hay ấy là niềm thành kính, nỗi xúc động thành tâm của Viễn Phương lần đầu ra thăm lăng Bác được biểu thị qua bài thơ Viếng lăng Bác.II. Thân bài:- Khổ 4,5 của bài Mùa xuân nho bé: màu xuân gợi cho con người niềm khẩn thiết và hi vọng, dù ở cái tuổi gần đất xa trời và những ngày trên giường bệnh mà Thanh Hải vẫn bày tỏ tâm niệm của mình:Ta làm con chim hót,Ta làm 1 cành hoaTa nhập vào hoà ca,1 nốt trầm xao xuyến(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})- Điệp ngữ “ta làm” cùng với nhịp thơ dập dồn diễn đạt khát vọng thôi thúc mãnh liệt trong lòng thi sĩ. Đấy là khát vọng góp 1 phần bé nhỏ của mình để điểm tô cho mùa xuân quê hương.Nguyện ước làm con chim để mang tai mang tiếng hát cho đời thêm rộn rã, 1 cành hoa để khoe sắc trước ánh mặt trời điểm tô cho vẻ đẹp của cuộc sống, 1 nốt trầm góp nên bản hòa ca xao xuyến. Những ước nguyện đó ko cao xa, ko ầm ĩ chứng tỏ thi sĩ rất khiêm tốn và mong muốn được góp sức âm thầm đời mình. Tiếng chim đó, cành hòa đó, khúc ca đó đều là tấm lòng của thi sĩ để mừng cho ngày xuân hợp nhất của quê hương, mừng cho xứ Huế yên bình, mỗi càng ngày càng tăng trưởng.1 mùa xuân nho nhỏLặng lẽ dâng cho đờiDù là tuổi 2 mươiDù là lúc tóc bạc.- Thái độ sống hăng hái, sáng sủa của 1 thi sĩ đã nhiều đóng góp cho nền thơ ca Việt Nam và cho cả cuộc kháng chiến vẫn cho sự góp sức của mình là âm thầm. Dẫu qua cái tuổi xuân của cuộc đời vẫn muốn góp sức sức lực của mình.- Điệp ngữ “dù là” là lời nhắc nhở bản thân luôn quyết tâm để đối đầu với tuổi già, bệnh tật. Theo thi sĩ, ko chỉ tuổi xanh mới có phận sự đóng góp cho xã hội nhưng ấy là phận sự của tất cả mọi người.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})- Hình ảnh thơ gần gụi, mộc mạc, giọng thơ nhẹ nhõm, ngọt ngào như tiếng lòng rủ rỉ của chính thi sĩ. Nguyện ước ấy là nguyện ước cao đẹp ko cho riêng mình nhưng dành riêng cho cuộc đời.Khổ thơ cuối Viếng lăng BácMai về miền Nam, thương trào nước mắtMuốn làm con chim hót quanh lăngMuốn làm bông hoa toả hương đâu đâyMuốn làm cây tre trung hiếu chốn này.- Dù rằng đang đứng trước hình hài người lãnh tụ mà Viễn Phương đã lo sợ lúc mai phải lìa xa nơi này. Nỗi thôi thúc trong lòng thành kính và tình cảm vô hạn đối với người lãnh tụ đã khiến thi sĩ bật lên thành tiếng khóc “thương trào nước mắt” ý thơ mộc mạc nhưng thành tâm.- Điệp ngữ “muốn làm” nhấn mạnh khát vọng được hóa thân để ở kế bên Người. Viễn phương muốn làm con chim để hót chào rạng đông thức dậy trước lăng và mang tai mang tiếng hát say sưa cho Bác ngủ thanh bình, muốn làm đóa hoa trước lăng khoe sắc, muốn làm cây tre canh phòng sự thiêng liêng. Hình ảnh cây tre Việt Nam được lặp lại phần đầu thêm vào nhân phẩm trung hiếu để hoàn thiện tính cách của người Việt Nam: bền chí, quật cường, trung hiếu.- Viễn Phương sử dụng tiếng nói giản dị mà giàu sức gợi cảm, tinh tế và khôn khéo trong tuyển lựa hình ảnh để bộc bạch tấm lòng thành kín của đứa con miền Nam lúc đứng trước lăng Bác. Bài thơ truyền cho người đọc tình yêu quý vị lãnh tụ lớn lao của dân chúng và thái độ sống ân huệ, trung hiếu đối với non sông.* So sánh:- Điểm giống nhau:Cả 2 đoạn thơ đều trình bày nguyện ước thành tâm, khẩn thiết được hoà nhập, góp sức cho cuộc đời, cho non sông, dân chúng… Nguyện ước khiêm nhượng, bình dị muốn được góp phần dù bé nhỏ vào cuộc đời chung.Các thi sĩ đều dùng những hình ảnh đẹp của tự nhiên là tượng trưng trình bày nguyện ước của mình.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})- Khác nhau:Thanh Hải viết về đề tài tự nhiên non sông và khát vọng hòa nhập hiến dâng cho cuộc đời.Viễn Phương viết về đề tài lãnh tụ, trình bày niềm xúc động thiêng liêng, tấm lòng khẩn thiết thành kính lúc tác giả từ miền Nam vừa được giải phóng ra viếng Bác Hồ.III. Kết bài: Dù ngày Viễn Phương ra viếng lăng Bác đã rất xa, Thanh Hải thì ko còn nhận ra mùa xuân quê hương mình nữa. Nhưng mỗi thi sĩ đều để lại những dòng thơ tràn đầy, ấm áp về tình người, tình cảm sâu nặng với quê hương, xứ sở.So sánh nguyện ước của Thanh Hải và Viễn PhươngGiống nhau:Cả 2 nguyện ước của thi sĩ đều tới từ sự thành tâm, khởi hành từ trái tim và cùng muốn hoá thân thành những thứ tưởng chừng là bé nhỏ, đời thường mà lại rất ý nghĩa, muốn được góp phần dù bé nhỏ vào cuộc đời chung.Khác nhau:- Tác phẩm Mùa xuân nho bé của Thanh Hải:Thanh Hải viết về đề tài tự nhiên non sông nên nguyện ước của ông mang tính xã hội, đất nướcƯớc nguyện của ông là muốn góp sức cả cuộc đời và sức lực của mình cho non sông.- Tác phẩm Viếng Lăng Bác của Viễn Phương:Viễn Phương viết về đề tài lãnh tụ và nguyện ước của ông dành cho riêng Bác và ấy cũng như thay mặt dân chúng.Nguyện ước của ông là hoá thân thành những thứ bao quanh lăng Bác để mãi bên Bác, ko bao giờ rời xa.So sánh nguyện ước của Thanh Hải và Viễn Phương – Mẫu 1Như chúng ta đã biết có rất nhiều nhà văn, thi sĩ đã viết về nguyện ước góp sức cho cuộc đời. Thế mà, có nhẽ chưa có người nào viết 1 cách thật thật tâm, thân yêu như trong khổ 4 bài thơ “Viếng lăng Bác” của thi sĩ Viễn Phương:“Mai về miền Nam thương trào nước mắtMuốn làm con chim hót quanh lăng BácMuốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đâyMuốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”Và khổ 4 và 5 trong bài thơ “Mùa xuân nho bé” của nhà thơ Thanh Hải:“Ta làm con chim hótTa làm 1 cành hoaTa nhập vào hòa caMột nốt trầm xao xuyến.1 mùa xuân nho nhỏLặng lẽ dâng cho đờiDù là tuổi 2 mươiDù là lúc tóc bạc. ”(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Qua 2 tác phẩm trên, ta có nghĩ suy gì về nguyện ước góp sức của các tác giả? Ở đầu khổ thơ 4 trong bài “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương đã khởi đầu bằng: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”.Nếu ở khổ thơ thứ nhất nói về hình ảnh hàng tre xanh xanh thân thuộc của làng quê Việt Nam, ở khổ thơ thứ 2 nói về hình ảnh mặt trời cùng dòng người đi vào lăng viếng Bác trình bày niềm tôn kính của thi sĩ và cũng là của mọi người đối với Bác, ở khổ thơ thứ 3 thì nói về tâm cảnh và sự xúc động lúc ở trong lăng Bác thì tới khổ thơ thứ tư này, thi sĩ đã biểu thị rõ nét nhất về tình cảm của mình lúc phải rời xa lăng Bác để trở về với những công tác của mình. Qua cụm từ “thương trào nước mắt”, tác giả nghe đâu khóc rất nhiều lúc phải nói lời chia tay với Bác và sau ấy thi sĩ đã nêu:“Mai về miền Nam thương trào nước mắtMuốn làm con chim hót quanh lăng BácMuốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đâyMuốn làm cây tre trung hiếu chốn này”Điệp ngữ “muốn làm” liên kết với nghệ thuật liệt kê, những cụ thể gợi tả “con chim, đóa hoa, cây tre” với nhịp thơ dập dồn đã nói lên nguyện ước của thi sĩ Viễn Phương muốn hóa thân vào cảnh vật quanh lăng Bác. Tác giả muốn làm con chim hót ru Bác ngủ, muốn làm đóa hoa tỏa hương mênh mông, muốn làm cây tre canh phòng giấc ngủ bình an cho Người. Kết cấu đầu, cuối tương ứng thật lạ mắt và khôn khéo, bài thơ mở ra hình ảnh hàng tre xanh xanh Việt Nam và kết lại bằng hình ảnh “‘cây tre trung hiếu”. Nếu hàng tre là đại diện cho dân tộc Việt Nam thì cây tre trung hiếu đại diện cho thi sĩ. Tác giả muốn làm 1 công dân trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng chấm dứt, gian khổ nào cũng vượt qua, kẻ địch nào cũng đánh bại. Và tác giả muốn đi theo tuyến đường cách mệnh tuân theo lời Bác. Đấy cũng là nguyện ước của toàn dân chúng ta. Sang tới đoạn thơ thứ 2, khố 4, 5 trong bài “Mùa xuân nho bé” của nhà thơ Thanh Hải, ông đã viết:“Ta làm con chim hótTa làm 1 cành hoaTa nhập vào hòa caMột nốt trầm xao xuyến.1 mùa xuân nho nhỏLặng lẽ dâng cho đờiDù là tuổi 2 mươiDù là lúc tóc bạc.”Nếu ở khổ 1 là bức tranh tự nhiên của mùa xuân xứ Huế, ở khổ 2 và khổ 3 là mùa xuân tự nhiên của non sông thì tới đây là nguyện ước góp sức của thi sĩ:“Ta làm con chim hótTa làm 1 cành hoaTa nhập vào hòa caMột nốt trầm xao xuyến.”Với những dòng thơ như tâm sự, rủ rỉ, liên kết với điệp ngữ “ta làm” đã trình bày được nguyện ước của thi sĩ. Dù lặp lại 2 hình ảnh “con chim, cành hoa” ở khổ 1 để tạo kết cấu chặt chẽ trong bài thơ mà ở khổ 1 lại là hình ảnh của tự nhiên thì ở đây được nâng lên là 2 hình ảnh ẩn dụ nói lên nguyện ước của thi sĩ. Nếu con chim mang tai mang tiếng hát cho đời thêm vui, cành hoa tỏa hương sắc làm đẹp cho đời thì thi sĩ cũng nguyện đem những gì tốt hấp dẫn nhất cho đời. Tác giả còn muốn làm “1 nốt trầm xao xuyến”. “Nốt trầm” là nốt thấp trong 1 bản nhạc mà sự hiện diện của nó góp phần làm tăng bậc cao của những nốt còn lại, tạo sự luyến láy khiến cho bản đại hòa tấu thêm rộn rã, tươi vui. Nếu ở khổ đầu tác ví thử dụng đại từ “tôi” tức là chỉ mình ông cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân tự nhiên thì tới đây ông dùng đại từ “ta” vừa chỉ số ít, vừa chỉ số nhiều tức là chẳng hề chỉ nguyện ước của riêng thi sĩ nhưng là của toàn dân Việt Nam. Sự hài hòa giữa “tôi” và “ta”, sự gắn bó giữa cái chung và cái riêng.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Và sang khổ thơ thứ 5, thi sĩ lại tiếp diễn nói về nguyện ước góp sức của mình:”1 mùa xuân nho nhỏLặng lẽ dâng cho đờiDù là tuổi 2 mươiDù là lúc tóc bạc.”Nhiều thi sĩ dùng nhiều định ngữ mùa xuân: mùa xuân xanh, mùa xuân 9, xuân lòng…Nhưng “mùa xuân nho bé” là 1 hình ảnh ẩn dụ, thông minh lạ mắt, 1 phát hiện mới của Thanh Hải. Nếu mùa xuân đem đến những chỉnh sửa diệu kì cho non sông thì thi sĩ cũng nguyện làm mùa xuân sống đẹp, sống với tất cả sức sống đang có để góp vào mùa xuân béo của dân tộc, của cuộc đời chung. Từ láy gợi cảm “âm thầm” được đảo lên đầu câu thơ liên kết từ “dâng” gợi cảm đã trình bày sự lặng thầm ko khoa trương, nói lên 1 thái độ góp sức, 1 cách góp sức rất riêng Thanh Hải. Điệp ngữ “dù là” liên kết 2 hình ảnh hoán dụ “tuổi 2 mươi” và “tóc bạc” đã trình bày được nguyện ước góp sức của thi sĩ dù ấy là tuổi xanh đầy thanh xuân hay dù cho đã luống tuổi.Qua phần phân tách trên, ta cảm nhận ở 2 thi phẩm có những nét chung về nội dung và nghệ thuật. Xét về căn bản, cả 2 tác phẩm đều trình bày nguyện ước sống và góp sức cao đẹp, đem đến cho đời những gì tốt hấp dẫn nhất và đặc trưng ở 2 tác giả, ta thấy những xúc cảm ấy đều khởi hành từ tình cảm thành tâm yêu cuộc sống, yêu non sông dạt dào. Còn về mặt nghệ thuật, cả 2 bài thơ đều mượn những hình ảnh tự nhiên tuyệt đẹp và giàu ý nghĩa.Tóm lại, 2 thi phẩm, 2 tác giả mà chung 1 nghĩ suy, chung 1 nguyện ước. Những điều ấy thật đáng cho chúng ta – những lứa tuổi sau này – trân trọng. Riêng bản thân tôi vẫn còn ngồi trên ghế nhà trường mà sẽ luôn nuôi dưỡng trong lòng mình những đức tính tốt, trui rèn đạo đức, tri thức để ngày mai có thể xây dựng non sông càng ngày càng phồn vinh, lớn mạnh.So sánh nguyện ước của Thanh Hải và Viễn Phương – Mẫu 2Trong văn chương đương đại, có rất nhiều nhà văn, thi sĩ đã trình bày mong muốn được góp sức tuổi thanh xuân của mình cho non sông phê chuẩn các tác phẩm của mình. Trong số các tác phẩm đó, có thể nói khổ 4 bài thơ “Viếng Lăng Bác” của Viễn Phương và khổ 4, 5 bài thơ “Mùa xuân nho bé” của Thanh Hải đã trình bày mong muốn đó 1 cách lạ mắt, thâm thúy nhất. Vậy ta có nghĩ suy gì về nguyện ước góp sức của 2 thi sĩ trong các đoạn thơ đó?Ở “Viếng lăng Bác, nếu khổ 1 mô tả hàng tre bên lăng Bác, khổ 2 mô tả mặt trời và đoàn người tới viếng lăng Bác, khổ 3 mô tả cảnh Bác nằm trong giấc ngủ bình an thì khổ 4 trình bày nguyện ước của tác giả qua việc mô tả cảnh vật bao quanh lăng:“Muốn làm con chim hót quanh lăng BácMuốn làm đóa hoa toả hương đâu đâyMuốn làm cây tre trung hiếu chốn này. ”Bằng việc liệt kê các hình ảnh chọn lựa “con chim”, “đoá hoa”, “cây tre”, điệp ngữ “Muốn làm” và nhịp thơ nhanh, đoạn thơ đã trình bày nguyện ước góp sức của tác giả. Đây là những hình ảnh ẩn dụ đẹp trình bày nguyện ước của thi sĩ muốn làm “con chim” đem đến thú vui cho Bác, làm “đoá hoa” tô điểm cho lăng Bác và làm “cây tre” hoà nhập vào hàng tre mênh mông trước lăng Bác. Ở đây ta thấy có sự kết cấu ngành ngọn tương ứng: bài thơ mở ra bằng hình ảnh “hàng tre” và chấm dứt bằng hình ảnh “cây tre trung hiếu”. “Cây tre trung hiếu” trình bày mong muốn của tác giả được “trung với nước, hiếu với dân” như lời Bác dạy. Đây cũng là lời hẹn của tác giả trước anh linh của Bác, hẹn sẽ luôn giữ nhân phẩm, cốt cách người Việt Nam, hẹn sẽ sống như Bác và đi tiếp tuyến đường cách mệnh của Bác. Tác giả nói lên ước vọng của mình, hay phải chăng đã nói hộ ước vọng của tất cả chúng ta?(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Còn ở bài “Mùa xuân nho bé”, nếu khổ 1 mô tả xúc cảm của thi sĩ về mùa xuân tự nhiên xứ Huế, khổ 2, 3 nói về xúc cảm của thi sĩ trước mùa xuân của non sông thì ở khổ 4, tác giả đã nói lên nguyện ước thành tâm:“Ta làm con chim hótTa làm 1 cành hoaTa nhập vào hoà caMột nốt trầm xao xuyến ”Bằng giọng thơ bé nhẹ, khẩn thiết, các hình ảnh chọn lựa “con chim”, “cành hoa”, “nốt trầm” và điệp ngữ “ta làm”, khổ thơ trên đã trình bày nguyện ước góp sức của Thanh Hải. Nhà thơ muốn làm “con chim” để đem đến thú vui, niềm hạnh phúc cho mọi người, muốn làm “cành hoa” là muốn đem đến những gì hấp dẫn nhất cho đời, muốn làm “nốt trầm” là muốn hoà nhập với cuộc đời chung, vì cuộc sống là 1 bản hoà ca nhưng mỗi người trong ấy đều là 1 nốt nhạc phải sống trong bản hoà ca ấy, chẳng thể lỗi nhịp được. Nhưng tác giả chỉ vì mình như 1 nốt trầm thôi. Nốt trầm đó tuy bé nhỏ mà lại góp phần quan trọng để làm bản hoà ca trở thành du dương, làm xao xuyến lòng người. Tất cả đã trình bày rằng tác giả muốn sống đẹp, muốn góp sức những điều tốt hấp dẫn nhất dù là bé nhỏ, sống với tất cả nhựa sống của mình như con chim cho tiếng hót hay, cành hoa toả hương sắc cho đời. Ta còn thấy ở đây có 1 sự biến đổi ngôi nhân xưng từ “tôi” sang “ta”. Ở khổ 1, tác giả dùng đại từ “tôi” để mô tả xúc cảm riêng của mình, còn ở đây ông dùng đại từ ta với 2 nghĩa: nghĩa số ít và nghĩa số nhiều. Điều này chứng tỏ ấy ko chỉ là nguyện ước riêng của tác giả nhưng còn là nguyện ước chung của mọi người. Nguyện ước góp sức ở trên được trình bày rõ hơn ở khổ 5:1 mùa xuân nho nhỏLặng lẽ dâng cho đờiDù là tuổi 2 mươiDù là lúc tóc bạc.Từ láy “nho bé” và điệp ngữ “âm thầm” đã trình bày sự khiêm tốn của tác giả. Động từ “dâng” đã nói lên thái độ tình nguyện, thành tâm góp sức cho non sông suốt cuộc đời mình. Không chỉ vậy, các hình ảnh hoán dụ “tuổi 2 mươi” và “lúc tóc bạc” đã nói lên rằng dù trẻ hay già thì mọi người đều có thể góp sức cho đời: Điệp ngữ “dù là” như muốn thử thách thời kì, tuổi già và bệnh tật. Biết rằng tác giả đang nằm trên giường bệnh lúc sáng tác bài thơ này và thấy được thái độ sáng sủa, những khát vọng của ông; ta cảm thấy ông thật đáng quý, đáng bái phục biết bao.Sự cảm nhận trên đã cho ta thấy ở các đoạn thơ có 1 số sự đồng nhất về nội dung và nghệ thuật, về nội dung, xét về mặt căn bản, cả 2 đoạn thơ đều nói về nguyện ước sống đẹp, sống góp sức của tác giả và của tất cả mọi người. Hơn nữa, chúng đều khởi hành từ những xúc cảm thành tâm nhất của các tác giả và tình yêu của họ đối với cuộc sống, non sông với vị lãnh tụ mến yêu. về nghệ thuật, cả 2 tác giả đã sử dụng những hình ảnh mộc mạc, giản dị trong tự nhiên và nâng chúng lên thành những khát vọng góp sức cao đẹp. Không chỉ thế, cả 2 đoạn thơ còn sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ mới mẻ, thông minh lạ mắt, làm chúng trở thành thật thu hút, gây nhiều xúc cảm cho người đọc.Tuy nhiên, 2 đoạn thơ cũng có sự không giống nhau về nội dung và nghệ thuật, về nội dung, sự không giống nhau đó chính là cảm hứng, tình cảnh sáng tác bài thơ. Thanh Hải đã sáng tác “Mùa xuân nho bé” khi đang lâm bệnh, ko còn sống được lâu nữa mà vẫn rất muốn góp sức 1 thứ gì ấy cho đời. Còn bài “Viếng lăng Bác” được Viễn Phương sáng tác sau lúc vào Hà Nội thăm lăng Bác, trình bày xúc cảm, tâm sự của ông sau chuyến đi đó. Về nghệ thuật, khổ 4, 5 “Mùa xuân nho bé” được viết theo thể thơ 5 chữ, giọng thơ nhẹ nhõm, khẩn thiết, tâm sự, biểu thị tấm thật tâm của tác giả khi mà khổ 4 của “Viếng lăng Bác” được viết theo thể thơ 8 chữ, giọng thơ nghiêm trang, thành kính, nhịp thơ dập dồn gây cho người đọc nhiều xúc cảm về Bác Hồ.Với tất cả những sự giống nhau và không giống nhau ấy, mỗi đoạn thơ đều có những âm hưởng riêng, cá tính riêng đã đem đến cái hay, cái rực rỡ riêng của từng bài làm cho ta hết sức xúc động trước nguyện ước góp sức của tác giả và lối sống xinh xắn, đầy bổn phận của họ, và cũng là lối sống của con người Việt Nam, như Tố Hữu đã từng viết:“Nếu là con chim, chiếc láThì con chim phải hót, chiếc lá phải xanhLẽ nào vay nhưng ko trảSống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”Là học trò, sau lúc hiểu được các đoạn thơ trên, tôi sẽ quyết tâm đoàn luyện cho mình lối sống đẹp và có bổn phận, quyết tâm góp sức những gì tốt hấp dẫn nhất của mình cho quê hương, non sông.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})So sánh nguyện ước của Thanh Hải và Viễn Phương – Mẫu 3Chúng ta sống trong xã hội có con người và tự nhiên ,nên chăng phải biết quý mến tự nhiên và con người phải ko bạn nhỉ? Với Thanh Hải cảm xúc trước mùa xuân của tự nhiên, đất trời tới mùa xuân của mỗi con người trong mùa xuân béo của non sông, trình bày khát vọng được hiến dâng “mùa xuân nho bé” của mình vào mùa xuân béo của cuộc đời chung và ta cũng thấy niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng hàm ơn và kiêu hãnh xen lẫn nỗi chua xót lúc tác giả Viễn Phương vào lăng viếng Bác được trình bày qua giọng điệu vừa khẩn thiết, vừa nghiêm trang của thi sĩ, ở cả 2 bài thơ nguyện ước ko chỉ của riêng..Không phải trùng hợp nhưng thi sĩ Thanh Hải tuyển lựa mùa xuân để khởi nguồn cảm hứng. Mùa xuân của tự nhiên, non sông thường gợi lên ở mỗi con người niềm khao khát và hi vọng. Với Thanh Hải cũng thế, đây chính là thời khắc nhưng ông nhìn lại cuộc đời và bày tỏ tâm niệm khẩn thiết của 1 nhà cách mệnh, 1 thi sĩ đã gắn bó trọn đời với non sông, quê hương với 1 khát vọng thành tâm và khẩn thiết:”Ta làm con chim hót,Ta làm 1 cành hoa.Ta nhập vào hoà ca,1 nốt trầm xao xuyến”Nhịp thơ dập dồn và điệp từ “ta làm” diễn đạt rõ nét khát vọng góp sức của thi sĩ. Đấy là khát vọng sống hoà nhập vào cuộc sống của non sông, góp sức phần tốt đẹp, dù bé nhỏ, của mình cho cuộc đời chung, cho non sông. Điều tâm niệm đó được trình bày 1 cách thành tâm trong những hình ảnh thiên nhiên giàu sức gợi tả, gây xúc động sâu xa trong lòng người đọc. Nguyện ước được làm 1 tiếng chim, 1 cành hoa để góp vào vườn hoa muôn hương muôn sắc, rộn ràng tiếng chim, để đem đến hương sắc, điểm tô cho mùa xuân thêm tươi đẹp. Nhà thơ cầu nguyện được làm 1 “nốt trầm xao xuyến” ko ầm ĩ, ko cao điệu nhưng chỉ lặng thầm, âm thầm để “nhập” vào khúc ca, tiếng hát của dân chúng vui tươi đón xuân về. Được điểm tô cho mùa xuân, được góp phần kiến lập mùa xuân là tác giả đã nguyện hi sinh, nguyện góp sức cho sự phồn vinh của non sông. 1 mong ước nho bé, thật tâm, ko cừ khôi lớn lao nhưng gần gụi quá, khiêm tốn và cute quá! Hình ảnh nhuần nhì, thiên nhiên, thành tâm, giọng thơ nhè nhẹ, êm ái, ngọt ngào của những thanh bằng liên tục liên kết với cách cấu tứ lặp lại tương tự đã mang 1 ý nghĩa mới nhấn mạnh thêm mơ ước được sống có lợi cho đời, góp sức cho non sông như 1 lẽ thiên nhiên. Điệp từ “ta” như 1 lời khẳng định, vừa như 1 tiếng lòng, như 1 lời hàn huyên bé nhẹ, thật tâm. Nguyện ước ấy đã được đẩy lên cao thành 1 lẽ sống cao đẹp, ko chỉ cho riêng thi sĩ nhưng cho tất cả mọi người, cho thời đại của chúng ta. Đấy là lẽ sống góp sức cho đời âm thầm, khiếm tốn, không tính gì tới tuổi tác:1 mùa xuân nho nhỏLặng lẽ dâng cho đờiDù là tuổi 2 mươiDù là lúc tóc bạc.Thái độ “âm thầm dâng cho đời” nói lên ý nguyện thật khiêm nhượng mà vô cùng dẻo dai và hết sức đáng quý vì ấy là những gì tốt hấp dẫn nhất trong cuộc đời. Thật cảm động làm sao trước ước ao của thi sĩ dẫu đã qua tuổi xuân của cuộc đời, vẫn được làm 1 mùa xuân bé trong cái mùa xuân béo lao đó. Điệp ngữ “dù là” ở đây như 1 lời tự khẳng định để nhủ với lương tâm sẽ phải kiên cường, thách thức với thời kì tuổi già, bệnh tật để mãi mãi làm 1 mùa xuân nho bé trong mùa xuân bao la của quê hương non sông. Giọng thơ vẫn bé nhẹ, thật tâm mà mang sức nói chung béo. Chính thành ra, hình ảnh “mùa xuân nho bé” như ánh lên, toả sức xuân tâm hồn trong toàn bài thơ.Thật cảm động và kính phục biết bao lúc đọc những vần thơ như lời tổng kết của cuộc đời. “Dù là tuổi 2 mươi” lúc mới tham dự kháng chiến cho tới lúc tóc bạc là thời khắc bây giờ vẫn âm thầm hiến dâng cho đời và những câu thơ này là 1 trong những câu thơ rốt cuộc. “1 mùa xuân nho bé” rốt cuộc của Thanh Hải dâng tặng cho đời trước khi ông bước vào toàn cầu cực lạc, sẵn sàng ra đi mãi mãi.Và “Viếng lăng Bác”, bài thơ gây 1 cảm xúc đặc trưng. Viễn Phương bằng 1 tiếng nói tinh tế, giàu xúc cảm sâu lắng đã diễn đạt niềm mến yêu, sự xót thương và lòng hàm ơn vô bờ của thi sĩ đối với lãnh tụ. Từ tình cảm thành kính, ái mộ nhưng toàn dân tộc Việt Nam dành cho Bác thi sĩ đã truyền xúc cảm của mình tới với người đọc lúc nguyện làm tiếng chim hót , làm bông hoa đẹp, làm cây tre trung hiếu và chuẩn bị làm muôn vàn công tác tốt để kính dâng Người:Mai về miền Nam, thương trào nước mắtMuốn làm con chim hót quanh lăngMuốn làm bông hoa toả hương đâu đâyMuốn làm cây tre trung hiếu chốn này.Dù rằng hiện nay thi sĩ đang đứng bên lăng Người, trong lăng Người mà lúc nghĩ tới những ngày phải rời miền Bắc, ngày xa Bác Viễn Phương thấy quyến luyến ko muốn rời. Tình cảm trong những ngày được sống bên Bác xoành xoạch sâu lắng từng giây từng phút. Tác giả chẳng thể nào ngăn được nữa những dòng nước mắt trào dâng và khẩn thiết.Mai về miền Nam thương trào nước mắtCâu thơ thật bình dị mà chan chứa tình thương ôm ấp sâu lắng tận đáy lòng khiến cho mỗi chúng ta lúc đọc lên cảm thấy hết sức xúc động. Đây là 1 cách nói ko hoa mỹ nhưng là 1 cách nói rất thành tâm của người dân Nam Bộ mà lại lắng đọng trong lòng người ko gì có thể nói và tả được. Cũng khởi hành từ tình cảm ấy bởi thế thi sĩ có nguyện ước thành kính và đây có thể là ước muốn chung của tất cả mọi người đã 1 lần hoặc chưa 1 lần gặp Bác.Muốn làm con chim hót quanh lăng BácMuốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đâyMuốn làm cây tre trung hiếu chốn này.Điệp ngữ “Muốn làm” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong đoạn thơ trình bày nguyện ước muốn tình nguyện tự giác của Viễn Phương. Nhà thơ muốn làm con chim hót dâng tiếng hót vui. Muốn làm bông hoa dâng hương thơm và nhan sắc. muốn làm cây tre trung hiếu canh phòng cho lăng Bác ngày đêm. Hình ảnh cây tre lại hiện ra ở đoạn cuối bài thơ làm nhiệm vụ khép lại bài thơ 1 cách khôn khéo, tạo cho người đọc 1 ấn tượng mạnh bạo khó phai mờ. Hình tượng tre được chuyển hóa: “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”. Khổ thơ đầu là hàng tre, khổ thơ cuối là cây tre. Nghĩa là muốn hóa thân thành 1 cây tre trong hàng tre kia để luôn được ở bên Bác, biểu thị 1 tình cảm bịn rịn. Đấy là tấm lòng yêu quý và sự tôn kính đối với Bác Hồ. Và thật cao đẹp biết bao lúc thi sĩ muốn hóa thân làm cây tre trung hiếu, trong muôn vàn cây tre quanh lăng Bác, để được ở mãi bên Bác. Hình ảnh cây tre ở khổ thơ thứ nhất được lặp lại trong khổ thơ cuối hình thành kết cấu đầu cuối tương ứng, giúp hoàn thiện tượng trưng cây tre Việt Nam. Nếu ở khổ thơ thứ nhất, tre là hình ảnh biểu trưng cho nhân phẩm bền chí, quật cường; thì ở khổ thơ cuối, hình ảnh cây tre được lặp lại mà là để biểu trưng cho nhân phẩm trung hiếu. Cây tre đã biến thành tượng trưng chu toàn cho nhân phẩm của con người và dân tộc Việt Nam.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Bài thơ “Viếng lăng Bác” đã để lại trong lòng độc giả những xúc cảm sâu lắng và khẩn thiết. Bài thơ sẽ tiếp diễn sống trong lòng người đọc, gợi nhắc cho những lứa tuổi kế tục thành tựu đặc sắc của cách mệnh cách sống sao cho xứng đáng với sự hi sinh của 1 con người lớn lao nhưng giản dị- Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã sống trọn 1 đời:”Chỉ biết quên mình cho hết thảyNhư dòng sông chảy nặng phù sa”

[rule_2_plain]

[rule_3_plain]

Văn mẫu lớp 9: So sánh nguyện ước của Thanh Hải trong Mùa xuân nho bé và nguyện ước của Viễn Phương trong Viếng lăng Bác Dàn ý & 3 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất

Văn mẫu lớp 9: So sánh nguyện ước của Thanh Hải trong Mùa xuân nho bé và nguyện ước của Viễn Phương trong Viếng lăng Bác gồm dàn ý cụ thể, cùng 3 bài văn mẫu, giúp các em tham khảo để hoàn thiện bài viết của mình hay hơn.Đứng trước tự nhiên tươi đẹp của mùa xuân xứ Huế, Thanh Hải đã trình bày khát vọng hiến dâng mùa xuân của mình vào mùa xuân chung non sông qua bài thơ Mùa Xuân nho bé. Hay ấy là niềm thành kính, nỗi xúc động thành tâm của Viễn Phương lần đầu ra thăm lăng Bác được biểu thị qua bài thơ Viếng lăng Bác. Vậy mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây của Ôn Thi HSG:So sánh nguyện ước của Thanh Hải và Viễn PhươngDàn ý so sánh nguyện ước của Thanh Hải và Viễn PhươngSo sánh nguyện ước của Thanh Hải và Viễn PhươngSo sánh nguyện ước của Thanh Hải và Viễn Phương – Mẫu 1So sánh nguyện ước của Thanh Hải và Viễn Phương – Mẫu 2So sánh nguyện ước của Thanh Hải và Viễn Phương – Mẫu 3(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Dàn ý so sánh nguyện ước của Thanh Hải và Viễn PhươngI. Mở bài: giới thiệu chung về 2 tác giả và 2 tác phẩmAi cũng có những ước vọng của riêng mình, ước vọng đó có thể phổ biến, giản dị mà cũng có thể là khát khao ước vọng tiến hành được lúc thoát khỏi cái tôi tư nhân hóa thân, hòa nhập vào tập thể. Đứng trước tự nhiên tươi đẹp của mùa xuân xứ Huế, Thanh Hải đã trình bày khát vọng hiến dâng mùa xuân của mình vào mùa xuân chung non sông qua bài thơ Mùa Xuân nho bé. Hay ấy là niềm thành kính, nỗi xúc động thành tâm của Viễn Phương lần đầu ra thăm lăng Bác được biểu thị qua bài thơ Viếng lăng Bác.II. Thân bài:- Khổ 4,5 của bài Mùa xuân nho bé: màu xuân gợi cho con người niềm khẩn thiết và hi vọng, dù ở cái tuổi gần đất xa trời và những ngày trên giường bệnh mà Thanh Hải vẫn bày tỏ tâm niệm của mình:Ta làm con chim hót,Ta làm 1 cành hoaTa nhập vào hoà ca,1 nốt trầm xao xuyến(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})- Điệp ngữ “ta làm” cùng với nhịp thơ dập dồn diễn đạt khát vọng thôi thúc mãnh liệt trong lòng thi sĩ. Đấy là khát vọng góp 1 phần bé nhỏ của mình để điểm tô cho mùa xuân quê hương.Nguyện ước làm con chim để mang tai mang tiếng hát cho đời thêm rộn rã, 1 cành hoa để khoe sắc trước ánh mặt trời điểm tô cho vẻ đẹp của cuộc sống, 1 nốt trầm góp nên bản hòa ca xao xuyến. Những ước nguyện đó ko cao xa, ko ầm ĩ chứng tỏ thi sĩ rất khiêm tốn và mong muốn được góp sức âm thầm đời mình. Tiếng chim đó, cành hòa đó, khúc ca đó đều là tấm lòng của thi sĩ để mừng cho ngày xuân hợp nhất của quê hương, mừng cho xứ Huế yên bình, mỗi càng ngày càng tăng trưởng.1 mùa xuân nho nhỏLặng lẽ dâng cho đờiDù là tuổi 2 mươiDù là lúc tóc bạc.- Thái độ sống hăng hái, sáng sủa của 1 thi sĩ đã nhiều đóng góp cho nền thơ ca Việt Nam và cho cả cuộc kháng chiến vẫn cho sự góp sức của mình là âm thầm. Dẫu qua cái tuổi xuân của cuộc đời vẫn muốn góp sức sức lực của mình.- Điệp ngữ “dù là” là lời nhắc nhở bản thân luôn quyết tâm để đối đầu với tuổi già, bệnh tật. Theo thi sĩ, ko chỉ tuổi xanh mới có phận sự đóng góp cho xã hội nhưng ấy là phận sự của tất cả mọi người.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})- Hình ảnh thơ gần gụi, mộc mạc, giọng thơ nhẹ nhõm, ngọt ngào như tiếng lòng rủ rỉ của chính thi sĩ. Nguyện ước ấy là nguyện ước cao đẹp ko cho riêng mình nhưng dành riêng cho cuộc đời.Khổ thơ cuối Viếng lăng BácMai về miền Nam, thương trào nước mắtMuốn làm con chim hót quanh lăngMuốn làm bông hoa toả hương đâu đâyMuốn làm cây tre trung hiếu chốn này.- Dù rằng đang đứng trước hình hài người lãnh tụ mà Viễn Phương đã lo sợ lúc mai phải lìa xa nơi này. Nỗi thôi thúc trong lòng thành kính và tình cảm vô hạn đối với người lãnh tụ đã khiến thi sĩ bật lên thành tiếng khóc “thương trào nước mắt” ý thơ mộc mạc nhưng thành tâm.- Điệp ngữ “muốn làm” nhấn mạnh khát vọng được hóa thân để ở kế bên Người. Viễn phương muốn làm con chim để hót chào rạng đông thức dậy trước lăng và mang tai mang tiếng hát say sưa cho Bác ngủ thanh bình, muốn làm đóa hoa trước lăng khoe sắc, muốn làm cây tre canh phòng sự thiêng liêng. Hình ảnh cây tre Việt Nam được lặp lại phần đầu thêm vào nhân phẩm trung hiếu để hoàn thiện tính cách của người Việt Nam: bền chí, quật cường, trung hiếu.- Viễn Phương sử dụng tiếng nói giản dị mà giàu sức gợi cảm, tinh tế và khôn khéo trong tuyển lựa hình ảnh để bộc bạch tấm lòng thành kín của đứa con miền Nam lúc đứng trước lăng Bác. Bài thơ truyền cho người đọc tình yêu quý vị lãnh tụ lớn lao của dân chúng và thái độ sống ân huệ, trung hiếu đối với non sông.* So sánh:- Điểm giống nhau:Cả 2 đoạn thơ đều trình bày nguyện ước thành tâm, khẩn thiết được hoà nhập, góp sức cho cuộc đời, cho non sông, dân chúng… Nguyện ước khiêm nhượng, bình dị muốn được góp phần dù bé nhỏ vào cuộc đời chung.Các thi sĩ đều dùng những hình ảnh đẹp của tự nhiên là tượng trưng trình bày nguyện ước của mình.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})- Khác nhau:Thanh Hải viết về đề tài tự nhiên non sông và khát vọng hòa nhập hiến dâng cho cuộc đời.Viễn Phương viết về đề tài lãnh tụ, trình bày niềm xúc động thiêng liêng, tấm lòng khẩn thiết thành kính lúc tác giả từ miền Nam vừa được giải phóng ra viếng Bác Hồ.III. Kết bài: Dù ngày Viễn Phương ra viếng lăng Bác đã rất xa, Thanh Hải thì ko còn nhận ra mùa xuân quê hương mình nữa. Nhưng mỗi thi sĩ đều để lại những dòng thơ tràn đầy, ấm áp về tình người, tình cảm sâu nặng với quê hương, xứ sở.So sánh nguyện ước của Thanh Hải và Viễn PhươngGiống nhau:Cả 2 nguyện ước của thi sĩ đều tới từ sự thành tâm, khởi hành từ trái tim và cùng muốn hoá thân thành những thứ tưởng chừng là bé nhỏ, đời thường mà lại rất ý nghĩa, muốn được góp phần dù bé nhỏ vào cuộc đời chung.Khác nhau:- Tác phẩm Mùa xuân nho bé của Thanh Hải:Thanh Hải viết về đề tài tự nhiên non sông nên nguyện ước của ông mang tính xã hội, đất nướcƯớc nguyện của ông là muốn góp sức cả cuộc đời và sức lực của mình cho non sông.- Tác phẩm Viếng Lăng Bác của Viễn Phương:Viễn Phương viết về đề tài lãnh tụ và nguyện ước của ông dành cho riêng Bác và ấy cũng như thay mặt dân chúng.Nguyện ước của ông là hoá thân thành những thứ bao quanh lăng Bác để mãi bên Bác, ko bao giờ rời xa.So sánh nguyện ước của Thanh Hải và Viễn Phương – Mẫu 1Như chúng ta đã biết có rất nhiều nhà văn, thi sĩ đã viết về nguyện ước góp sức cho cuộc đời. Thế mà, có nhẽ chưa có người nào viết 1 cách thật thật tâm, thân yêu như trong khổ 4 bài thơ “Viếng lăng Bác” của thi sĩ Viễn Phương:“Mai về miền Nam thương trào nước mắtMuốn làm con chim hót quanh lăng BácMuốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đâyMuốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”Và khổ 4 và 5 trong bài thơ “Mùa xuân nho bé” của nhà thơ Thanh Hải:“Ta làm con chim hótTa làm 1 cành hoaTa nhập vào hòa caMột nốt trầm xao xuyến.1 mùa xuân nho nhỏLặng lẽ dâng cho đờiDù là tuổi 2 mươiDù là lúc tóc bạc. ”(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Qua 2 tác phẩm trên, ta có nghĩ suy gì về nguyện ước góp sức của các tác giả? Ở đầu khổ thơ 4 trong bài “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương đã khởi đầu bằng: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”.Nếu ở khổ thơ thứ nhất nói về hình ảnh hàng tre xanh xanh thân thuộc của làng quê Việt Nam, ở khổ thơ thứ 2 nói về hình ảnh mặt trời cùng dòng người đi vào lăng viếng Bác trình bày niềm tôn kính của thi sĩ và cũng là của mọi người đối với Bác, ở khổ thơ thứ 3 thì nói về tâm cảnh và sự xúc động lúc ở trong lăng Bác thì tới khổ thơ thứ tư này, thi sĩ đã biểu thị rõ nét nhất về tình cảm của mình lúc phải rời xa lăng Bác để trở về với những công tác của mình. Qua cụm từ “thương trào nước mắt”, tác giả nghe đâu khóc rất nhiều lúc phải nói lời chia tay với Bác và sau ấy thi sĩ đã nêu:“Mai về miền Nam thương trào nước mắtMuốn làm con chim hót quanh lăng BácMuốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đâyMuốn làm cây tre trung hiếu chốn này”Điệp ngữ “muốn làm” liên kết với nghệ thuật liệt kê, những cụ thể gợi tả “con chim, đóa hoa, cây tre” với nhịp thơ dập dồn đã nói lên nguyện ước của thi sĩ Viễn Phương muốn hóa thân vào cảnh vật quanh lăng Bác. Tác giả muốn làm con chim hót ru Bác ngủ, muốn làm đóa hoa tỏa hương mênh mông, muốn làm cây tre canh phòng giấc ngủ bình an cho Người. Kết cấu đầu, cuối tương ứng thật lạ mắt và khôn khéo, bài thơ mở ra hình ảnh hàng tre xanh xanh Việt Nam và kết lại bằng hình ảnh “‘cây tre trung hiếu”. Nếu hàng tre là đại diện cho dân tộc Việt Nam thì cây tre trung hiếu đại diện cho thi sĩ. Tác giả muốn làm 1 công dân trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng chấm dứt, gian khổ nào cũng vượt qua, kẻ địch nào cũng đánh bại. Và tác giả muốn đi theo tuyến đường cách mệnh tuân theo lời Bác. Đấy cũng là nguyện ước của toàn dân chúng ta. Sang tới đoạn thơ thứ 2, khố 4, 5 trong bài “Mùa xuân nho bé” của nhà thơ Thanh Hải, ông đã viết:“Ta làm con chim hótTa làm 1 cành hoaTa nhập vào hòa caMột nốt trầm xao xuyến.1 mùa xuân nho nhỏLặng lẽ dâng cho đờiDù là tuổi 2 mươiDù là lúc tóc bạc.”Nếu ở khổ 1 là bức tranh tự nhiên của mùa xuân xứ Huế, ở khổ 2 và khổ 3 là mùa xuân tự nhiên của non sông thì tới đây là nguyện ước góp sức của thi sĩ:“Ta làm con chim hótTa làm 1 cành hoaTa nhập vào hòa caMột nốt trầm xao xuyến.”Với những dòng thơ như tâm sự, rủ rỉ, liên kết với điệp ngữ “ta làm” đã trình bày được nguyện ước của thi sĩ. Dù lặp lại 2 hình ảnh “con chim, cành hoa” ở khổ 1 để tạo kết cấu chặt chẽ trong bài thơ mà ở khổ 1 lại là hình ảnh của tự nhiên thì ở đây được nâng lên là 2 hình ảnh ẩn dụ nói lên nguyện ước của thi sĩ. Nếu con chim mang tai mang tiếng hát cho đời thêm vui, cành hoa tỏa hương sắc làm đẹp cho đời thì thi sĩ cũng nguyện đem những gì tốt hấp dẫn nhất cho đời. Tác giả còn muốn làm “1 nốt trầm xao xuyến”. “Nốt trầm” là nốt thấp trong 1 bản nhạc mà sự hiện diện của nó góp phần làm tăng bậc cao của những nốt còn lại, tạo sự luyến láy khiến cho bản đại hòa tấu thêm rộn rã, tươi vui. Nếu ở khổ đầu tác ví thử dụng đại từ “tôi” tức là chỉ mình ông cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân tự nhiên thì tới đây ông dùng đại từ “ta” vừa chỉ số ít, vừa chỉ số nhiều tức là chẳng hề chỉ nguyện ước của riêng thi sĩ nhưng là của toàn dân Việt Nam. Sự hài hòa giữa “tôi” và “ta”, sự gắn bó giữa cái chung và cái riêng.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Và sang khổ thơ thứ 5, thi sĩ lại tiếp diễn nói về nguyện ước góp sức của mình:”1 mùa xuân nho nhỏLặng lẽ dâng cho đờiDù là tuổi 2 mươiDù là lúc tóc bạc.”Nhiều thi sĩ dùng nhiều định ngữ mùa xuân: mùa xuân xanh, mùa xuân 9, xuân lòng…Nhưng “mùa xuân nho bé” là 1 hình ảnh ẩn dụ, thông minh lạ mắt, 1 phát hiện mới của Thanh Hải. Nếu mùa xuân đem đến những chỉnh sửa diệu kì cho non sông thì thi sĩ cũng nguyện làm mùa xuân sống đẹp, sống với tất cả sức sống đang có để góp vào mùa xuân béo của dân tộc, của cuộc đời chung. Từ láy gợi cảm “âm thầm” được đảo lên đầu câu thơ liên kết từ “dâng” gợi cảm đã trình bày sự lặng thầm ko khoa trương, nói lên 1 thái độ góp sức, 1 cách góp sức rất riêng Thanh Hải. Điệp ngữ “dù là” liên kết 2 hình ảnh hoán dụ “tuổi 2 mươi” và “tóc bạc” đã trình bày được nguyện ước góp sức của thi sĩ dù ấy là tuổi xanh đầy thanh xuân hay dù cho đã luống tuổi.Qua phần phân tách trên, ta cảm nhận ở 2 thi phẩm có những nét chung về nội dung và nghệ thuật. Xét về căn bản, cả 2 tác phẩm đều trình bày nguyện ước sống và góp sức cao đẹp, đem đến cho đời những gì tốt hấp dẫn nhất và đặc trưng ở 2 tác giả, ta thấy những xúc cảm ấy đều khởi hành từ tình cảm thành tâm yêu cuộc sống, yêu non sông dạt dào. Còn về mặt nghệ thuật, cả 2 bài thơ đều mượn những hình ảnh tự nhiên tuyệt đẹp và giàu ý nghĩa.Tóm lại, 2 thi phẩm, 2 tác giả mà chung 1 nghĩ suy, chung 1 nguyện ước. Những điều ấy thật đáng cho chúng ta – những lứa tuổi sau này – trân trọng. Riêng bản thân tôi vẫn còn ngồi trên ghế nhà trường mà sẽ luôn nuôi dưỡng trong lòng mình những đức tính tốt, trui rèn đạo đức, tri thức để ngày mai có thể xây dựng non sông càng ngày càng phồn vinh, lớn mạnh.So sánh nguyện ước của Thanh Hải và Viễn Phương – Mẫu 2Trong văn chương đương đại, có rất nhiều nhà văn, thi sĩ đã trình bày mong muốn được góp sức tuổi thanh xuân của mình cho non sông phê chuẩn các tác phẩm của mình. Trong số các tác phẩm đó, có thể nói khổ 4 bài thơ “Viếng Lăng Bác” của Viễn Phương và khổ 4, 5 bài thơ “Mùa xuân nho bé” của Thanh Hải đã trình bày mong muốn đó 1 cách lạ mắt, thâm thúy nhất. Vậy ta có nghĩ suy gì về nguyện ước góp sức của 2 thi sĩ trong các đoạn thơ đó?Ở “Viếng lăng Bác, nếu khổ 1 mô tả hàng tre bên lăng Bác, khổ 2 mô tả mặt trời và đoàn người tới viếng lăng Bác, khổ 3 mô tả cảnh Bác nằm trong giấc ngủ bình an thì khổ 4 trình bày nguyện ước của tác giả qua việc mô tả cảnh vật bao quanh lăng:“Muốn làm con chim hót quanh lăng BácMuốn làm đóa hoa toả hương đâu đâyMuốn làm cây tre trung hiếu chốn này. ”Bằng việc liệt kê các hình ảnh chọn lựa “con chim”, “đoá hoa”, “cây tre”, điệp ngữ “Muốn làm” và nhịp thơ nhanh, đoạn thơ đã trình bày nguyện ước góp sức của tác giả. Đây là những hình ảnh ẩn dụ đẹp trình bày nguyện ước của thi sĩ muốn làm “con chim” đem đến thú vui cho Bác, làm “đoá hoa” tô điểm cho lăng Bác và làm “cây tre” hoà nhập vào hàng tre mênh mông trước lăng Bác. Ở đây ta thấy có sự kết cấu ngành ngọn tương ứng: bài thơ mở ra bằng hình ảnh “hàng tre” và chấm dứt bằng hình ảnh “cây tre trung hiếu”. “Cây tre trung hiếu” trình bày mong muốn của tác giả được “trung với nước, hiếu với dân” như lời Bác dạy. Đây cũng là lời hẹn của tác giả trước anh linh của Bác, hẹn sẽ luôn giữ nhân phẩm, cốt cách người Việt Nam, hẹn sẽ sống như Bác và đi tiếp tuyến đường cách mệnh của Bác. Tác giả nói lên ước vọng của mình, hay phải chăng đã nói hộ ước vọng của tất cả chúng ta?(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Còn ở bài “Mùa xuân nho bé”, nếu khổ 1 mô tả xúc cảm của thi sĩ về mùa xuân tự nhiên xứ Huế, khổ 2, 3 nói về xúc cảm của thi sĩ trước mùa xuân của non sông thì ở khổ 4, tác giả đã nói lên nguyện ước thành tâm:“Ta làm con chim hótTa làm 1 cành hoaTa nhập vào hoà caMột nốt trầm xao xuyến ”Bằng giọng thơ bé nhẹ, khẩn thiết, các hình ảnh chọn lựa “con chim”, “cành hoa”, “nốt trầm” và điệp ngữ “ta làm”, khổ thơ trên đã trình bày nguyện ước góp sức của Thanh Hải. Nhà thơ muốn làm “con chim” để đem đến thú vui, niềm hạnh phúc cho mọi người, muốn làm “cành hoa” là muốn đem đến những gì hấp dẫn nhất cho đời, muốn làm “nốt trầm” là muốn hoà nhập với cuộc đời chung, vì cuộc sống là 1 bản hoà ca nhưng mỗi người trong ấy đều là 1 nốt nhạc phải sống trong bản hoà ca ấy, chẳng thể lỗi nhịp được. Nhưng tác giả chỉ vì mình như 1 nốt trầm thôi. Nốt trầm đó tuy bé nhỏ mà lại góp phần quan trọng để làm bản hoà ca trở thành du dương, làm xao xuyến lòng người. Tất cả đã trình bày rằng tác giả muốn sống đẹp, muốn góp sức những điều tốt hấp dẫn nhất dù là bé nhỏ, sống với tất cả nhựa sống của mình như con chim cho tiếng hót hay, cành hoa toả hương sắc cho đời. Ta còn thấy ở đây có 1 sự biến đổi ngôi nhân xưng từ “tôi” sang “ta”. Ở khổ 1, tác giả dùng đại từ “tôi” để mô tả xúc cảm riêng của mình, còn ở đây ông dùng đại từ ta với 2 nghĩa: nghĩa số ít và nghĩa số nhiều. Điều này chứng tỏ ấy ko chỉ là nguyện ước riêng của tác giả nhưng còn là nguyện ước chung của mọi người. Nguyện ước góp sức ở trên được trình bày rõ hơn ở khổ 5:1 mùa xuân nho nhỏLặng lẽ dâng cho đờiDù là tuổi 2 mươiDù là lúc tóc bạc.Từ láy “nho bé” và điệp ngữ “âm thầm” đã trình bày sự khiêm tốn của tác giả. Động từ “dâng” đã nói lên thái độ tình nguyện, thành tâm góp sức cho non sông suốt cuộc đời mình. Không chỉ vậy, các hình ảnh hoán dụ “tuổi 2 mươi” và “lúc tóc bạc” đã nói lên rằng dù trẻ hay già thì mọi người đều có thể góp sức cho đời: Điệp ngữ “dù là” như muốn thử thách thời kì, tuổi già và bệnh tật. Biết rằng tác giả đang nằm trên giường bệnh lúc sáng tác bài thơ này và thấy được thái độ sáng sủa, những khát vọng của ông; ta cảm thấy ông thật đáng quý, đáng bái phục biết bao.Sự cảm nhận trên đã cho ta thấy ở các đoạn thơ có 1 số sự đồng nhất về nội dung và nghệ thuật, về nội dung, xét về mặt căn bản, cả 2 đoạn thơ đều nói về nguyện ước sống đẹp, sống góp sức của tác giả và của tất cả mọi người. Hơn nữa, chúng đều khởi hành từ những xúc cảm thành tâm nhất của các tác giả và tình yêu của họ đối với cuộc sống, non sông với vị lãnh tụ mến yêu. về nghệ thuật, cả 2 tác giả đã sử dụng những hình ảnh mộc mạc, giản dị trong tự nhiên và nâng chúng lên thành những khát vọng góp sức cao đẹp. Không chỉ thế, cả 2 đoạn thơ còn sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ mới mẻ, thông minh lạ mắt, làm chúng trở thành thật thu hút, gây nhiều xúc cảm cho người đọc.Tuy nhiên, 2 đoạn thơ cũng có sự không giống nhau về nội dung và nghệ thuật, về nội dung, sự không giống nhau đó chính là cảm hứng, tình cảnh sáng tác bài thơ. Thanh Hải đã sáng tác “Mùa xuân nho bé” khi đang lâm bệnh, ko còn sống được lâu nữa mà vẫn rất muốn góp sức 1 thứ gì ấy cho đời. Còn bài “Viếng lăng Bác” được Viễn Phương sáng tác sau lúc vào Hà Nội thăm lăng Bác, trình bày xúc cảm, tâm sự của ông sau chuyến đi đó. Về nghệ thuật, khổ 4, 5 “Mùa xuân nho bé” được viết theo thể thơ 5 chữ, giọng thơ nhẹ nhõm, khẩn thiết, tâm sự, biểu thị tấm thật tâm của tác giả khi mà khổ 4 của “Viếng lăng Bác” được viết theo thể thơ 8 chữ, giọng thơ nghiêm trang, thành kính, nhịp thơ dập dồn gây cho người đọc nhiều xúc cảm về Bác Hồ.Với tất cả những sự giống nhau và không giống nhau ấy, mỗi đoạn thơ đều có những âm hưởng riêng, cá tính riêng đã đem đến cái hay, cái rực rỡ riêng của từng bài làm cho ta hết sức xúc động trước nguyện ước góp sức của tác giả và lối sống xinh xắn, đầy bổn phận của họ, và cũng là lối sống của con người Việt Nam, như Tố Hữu đã từng viết:“Nếu là con chim, chiếc láThì con chim phải hót, chiếc lá phải xanhLẽ nào vay nhưng ko trảSống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”Là học trò, sau lúc hiểu được các đoạn thơ trên, tôi sẽ quyết tâm đoàn luyện cho mình lối sống đẹp và có bổn phận, quyết tâm góp sức những gì tốt hấp dẫn nhất của mình cho quê hương, non sông.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})So sánh nguyện ước của Thanh Hải và Viễn Phương – Mẫu 3Chúng ta sống trong xã hội có con người và tự nhiên ,nên chăng phải biết quý mến tự nhiên và con người phải ko bạn nhỉ? Với Thanh Hải cảm xúc trước mùa xuân của tự nhiên, đất trời tới mùa xuân của mỗi con người trong mùa xuân béo của non sông, trình bày khát vọng được hiến dâng “mùa xuân nho bé” của mình vào mùa xuân béo của cuộc đời chung và ta cũng thấy niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng hàm ơn và kiêu hãnh xen lẫn nỗi chua xót lúc tác giả Viễn Phương vào lăng viếng Bác được trình bày qua giọng điệu vừa khẩn thiết, vừa nghiêm trang của thi sĩ, ở cả 2 bài thơ nguyện ước ko chỉ của riêng..Không phải trùng hợp nhưng thi sĩ Thanh Hải tuyển lựa mùa xuân để khởi nguồn cảm hứng. Mùa xuân của tự nhiên, non sông thường gợi lên ở mỗi con người niềm khao khát và hi vọng. Với Thanh Hải cũng thế, đây chính là thời khắc nhưng ông nhìn lại cuộc đời và bày tỏ tâm niệm khẩn thiết của 1 nhà cách mệnh, 1 thi sĩ đã gắn bó trọn đời với non sông, quê hương với 1 khát vọng thành tâm và khẩn thiết:”Ta làm con chim hót,Ta làm 1 cành hoa.Ta nhập vào hoà ca,1 nốt trầm xao xuyến”Nhịp thơ dập dồn và điệp từ “ta làm” diễn đạt rõ nét khát vọng góp sức của thi sĩ. Đấy là khát vọng sống hoà nhập vào cuộc sống của non sông, góp sức phần tốt đẹp, dù bé nhỏ, của mình cho cuộc đời chung, cho non sông. Điều tâm niệm đó được trình bày 1 cách thành tâm trong những hình ảnh thiên nhiên giàu sức gợi tả, gây xúc động sâu xa trong lòng người đọc. Nguyện ước được làm 1 tiếng chim, 1 cành hoa để góp vào vườn hoa muôn hương muôn sắc, rộn ràng tiếng chim, để đem đến hương sắc, điểm tô cho mùa xuân thêm tươi đẹp. Nhà thơ cầu nguyện được làm 1 “nốt trầm xao xuyến” ko ầm ĩ, ko cao điệu nhưng chỉ lặng thầm, âm thầm để “nhập” vào khúc ca, tiếng hát của dân chúng vui tươi đón xuân về. Được điểm tô cho mùa xuân, được góp phần kiến lập mùa xuân là tác giả đã nguyện hi sinh, nguyện góp sức cho sự phồn vinh của non sông. 1 mong ước nho bé, thật tâm, ko cừ khôi lớn lao nhưng gần gụi quá, khiêm tốn và cute quá! Hình ảnh nhuần nhì, thiên nhiên, thành tâm, giọng thơ nhè nhẹ, êm ái, ngọt ngào của những thanh bằng liên tục liên kết với cách cấu tứ lặp lại tương tự đã mang 1 ý nghĩa mới nhấn mạnh thêm mơ ước được sống có lợi cho đời, góp sức cho non sông như 1 lẽ thiên nhiên. Điệp từ “ta” như 1 lời khẳng định, vừa như 1 tiếng lòng, như 1 lời hàn huyên bé nhẹ, thật tâm. Nguyện ước ấy đã được đẩy lên cao thành 1 lẽ sống cao đẹp, ko chỉ cho riêng thi sĩ nhưng cho tất cả mọi người, cho thời đại của chúng ta. Đấy là lẽ sống góp sức cho đời âm thầm, khiếm tốn, không tính gì tới tuổi tác:1 mùa xuân nho nhỏLặng lẽ dâng cho đờiDù là tuổi 2 mươiDù là lúc tóc bạc.Thái độ “âm thầm dâng cho đời” nói lên ý nguyện thật khiêm nhượng mà vô cùng dẻo dai và hết sức đáng quý vì ấy là những gì tốt hấp dẫn nhất trong cuộc đời. Thật cảm động làm sao trước ước ao của thi sĩ dẫu đã qua tuổi xuân của cuộc đời, vẫn được làm 1 mùa xuân bé trong cái mùa xuân béo lao đó. Điệp ngữ “dù là” ở đây như 1 lời tự khẳng định để nhủ với lương tâm sẽ phải kiên cường, thách thức với thời kì tuổi già, bệnh tật để mãi mãi làm 1 mùa xuân nho bé trong mùa xuân bao la của quê hương non sông. Giọng thơ vẫn bé nhẹ, thật tâm mà mang sức nói chung béo. Chính thành ra, hình ảnh “mùa xuân nho bé” như ánh lên, toả sức xuân tâm hồn trong toàn bài thơ.Thật cảm động và kính phục biết bao lúc đọc những vần thơ như lời tổng kết của cuộc đời. “Dù là tuổi 2 mươi” lúc mới tham dự kháng chiến cho tới lúc tóc bạc là thời khắc bây giờ vẫn âm thầm hiến dâng cho đời và những câu thơ này là 1 trong những câu thơ rốt cuộc. “1 mùa xuân nho bé” rốt cuộc của Thanh Hải dâng tặng cho đời trước khi ông bước vào toàn cầu cực lạc, sẵn sàng ra đi mãi mãi.Và “Viếng lăng Bác”, bài thơ gây 1 cảm xúc đặc trưng. Viễn Phương bằng 1 tiếng nói tinh tế, giàu xúc cảm sâu lắng đã diễn đạt niềm mến yêu, sự xót thương và lòng hàm ơn vô bờ của thi sĩ đối với lãnh tụ. Từ tình cảm thành kính, ái mộ nhưng toàn dân tộc Việt Nam dành cho Bác thi sĩ đã truyền xúc cảm của mình tới với người đọc lúc nguyện làm tiếng chim hót , làm bông hoa đẹp, làm cây tre trung hiếu và chuẩn bị làm muôn vàn công tác tốt để kính dâng Người:Mai về miền Nam, thương trào nước mắtMuốn làm con chim hót quanh lăngMuốn làm bông hoa toả hương đâu đâyMuốn làm cây tre trung hiếu chốn này.Dù rằng hiện nay thi sĩ đang đứng bên lăng Người, trong lăng Người mà lúc nghĩ tới những ngày phải rời miền Bắc, ngày xa Bác Viễn Phương thấy quyến luyến ko muốn rời. Tình cảm trong những ngày được sống bên Bác xoành xoạch sâu lắng từng giây từng phút. Tác giả chẳng thể nào ngăn được nữa những dòng nước mắt trào dâng và khẩn thiết.Mai về miền Nam thương trào nước mắtCâu thơ thật bình dị mà chan chứa tình thương ôm ấp sâu lắng tận đáy lòng khiến cho mỗi chúng ta lúc đọc lên cảm thấy hết sức xúc động. Đây là 1 cách nói ko hoa mỹ nhưng là 1 cách nói rất thành tâm của người dân Nam Bộ mà lại lắng đọng trong lòng người ko gì có thể nói và tả được. Cũng khởi hành từ tình cảm ấy bởi thế thi sĩ có nguyện ước thành kính và đây có thể là ước muốn chung của tất cả mọi người đã 1 lần hoặc chưa 1 lần gặp Bác.Muốn làm con chim hót quanh lăng BácMuốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đâyMuốn làm cây tre trung hiếu chốn này.Điệp ngữ “Muốn làm” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong đoạn thơ trình bày nguyện ước muốn tình nguyện tự giác của Viễn Phương. Nhà thơ muốn làm con chim hót dâng tiếng hót vui. Muốn làm bông hoa dâng hương thơm và nhan sắc. muốn làm cây tre trung hiếu canh phòng cho lăng Bác ngày đêm. Hình ảnh cây tre lại hiện ra ở đoạn cuối bài thơ làm nhiệm vụ khép lại bài thơ 1 cách khôn khéo, tạo cho người đọc 1 ấn tượng mạnh bạo khó phai mờ. Hình tượng tre được chuyển hóa: “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”. Khổ thơ đầu là hàng tre, khổ thơ cuối là cây tre. Nghĩa là muốn hóa thân thành 1 cây tre trong hàng tre kia để luôn được ở bên Bác, biểu thị 1 tình cảm bịn rịn. Đấy là tấm lòng yêu quý và sự tôn kính đối với Bác Hồ. Và thật cao đẹp biết bao lúc thi sĩ muốn hóa thân làm cây tre trung hiếu, trong muôn vàn cây tre quanh lăng Bác, để được ở mãi bên Bác. Hình ảnh cây tre ở khổ thơ thứ nhất được lặp lại trong khổ thơ cuối hình thành kết cấu đầu cuối tương ứng, giúp hoàn thiện tượng trưng cây tre Việt Nam. Nếu ở khổ thơ thứ nhất, tre là hình ảnh biểu trưng cho nhân phẩm bền chí, quật cường; thì ở khổ thơ cuối, hình ảnh cây tre được lặp lại mà là để biểu trưng cho nhân phẩm trung hiếu. Cây tre đã biến thành tượng trưng chu toàn cho nhân phẩm của con người và dân tộc Việt Nam.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Bài thơ “Viếng lăng Bác” đã để lại trong lòng độc giả những xúc cảm sâu lắng và khẩn thiết. Bài thơ sẽ tiếp diễn sống trong lòng người đọc, gợi nhắc cho những lứa tuổi kế tục thành tựu đặc sắc của cách mệnh cách sống sao cho xứng đáng với sự hi sinh của 1 con người lớn lao nhưng giản dị- Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã sống trọn 1 đời:”Chỉ biết quên mình cho hết thảyNhư dòng sông chảy nặng phù sa”

[rule_2_plain]

[rule_3_plain]

VI. So sánh Mùa Xuân Nho Nhỏ và Viếng Lăng Bác của Thanh Hải và Viễn Phương


Tổng kết lại, qua việc “So sánh Mùa Xuân Nho Nhỏ và Viếng Lăng Bác của Thanh Hải và Viễn Phương“, chúng ta có thể thấy được sự khác biệt giữa hai nhân vật trong việc định hướng ước mơ và ước nguyện của cuộc đời.

Trong khi Thanh Hải tập trung vào mục tiêu cuộc sống và quyết tâm theo đuổi ước mơ của mình, Viễn Phương lại hướng đến những giá trị và tinh thần cao hơn, như tình yêu đất nước và sự nghiệp của đồng bào.

Tuy nhiên, cả hai nhân vật đều thể hiện sự quan tâm và lo lắng cho cuộc đời và sự nghiệp của mình, mỗi người theo cách của mình. Điều này cho thấy rằng, mỗi con người đều có những giá trị và quan điểm riêng, và việc tôn trọng và đồng cảm với những điều đó sẽ giúp chúng ta trân trọng những gì chúng ta có và đạt được trong cuộc sống.

Chúc các bạn đọc giả có thêm nhiều cảm hứng và sự hiểu biết về những giá trị và tinh thần trong cuộc sống, và đạt được những điều mình mong muốn trong tương lai.


บทความนี้รวบรวมและรวบรวมจากหลายแหล่งโดย Thử Thách Cùng Bước Nhảy.

ดูบทความอื่นๆ ในหมวดเดียวกันได้ที่นี่: Văn Học

Xavier Diaz

Trong thế giới đầy tri thức và sự phát triển không ngừng, tôi, Xavier Diaz, mong muốn được chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm của mình với mọi người. Với hơn 15 năm kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực chia sẻ kiến thức và sáng tạo nội dung, tôi tự hào là một người luôn đam mê học hỏi và truyền cảm hứng cho những người xung quanh. Được sinh ra tại Washington, Hoa Kỳ, tôi đã trải qua nhiều thử thách và trưởng thành nhờ vào sự học hỏi và trau dồi bản thân. Tôi tin rằng mỗi người đều có tiềm năng để phát triển và vươn tới những mục tiêu lớn lao, chỉ cần họ có đam mê, sự kiên trì và khát khao học hỏi. Đó cũng chính là tinh thần mà tôi mong muốn lan tỏa cho mọi người, bằng cách chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm của mình một cách sáng tạo và đầy tính nhân văn. Với niềm đam mê văn học và thơ ca, tôi mong muốn truyền cảm hứng và khơi gợi những cảm xúc tinh tế nhất từ những tác phẩm của mình. Cùng tôi khám phá và truyền đạt những giá trị đích thực của cuộc sống, đồng hành và học hỏi từ những người xung quanh để chúng ta cùng vươn tới những giá trị cao đẹp nhất trong cuộc sống này.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button